Từ trước đến nay, đa phần chùa tháp, danh Tăng và Phật sự không được ghi lại. Bởi thế, khi cần tra cứu, tìm hiểu, chúng ta thiếu tư liệu, hoặc có chăng nữa thì tư liệu không được ghi lại ngay lúc đương thời, do người có trách nhiệm sưu tập. Trừ một số tự viện có bi ký, nhưng lại quá đại lược; số còn lại phải mãi đến thời gian lâu xa về sau mới được nghiên cứu, tìm hiểu, do người ngoại cuộc ghi chép. Từ đó, có thể có những ghi chép, phán quyết, đánh giá không thật chính xác, hơn nữa, còn bị lệch lạc, xuyên tạc. Một số chùa tháp, danh Tăng, chúng ta phải tìm rải rác trong Đại Nam nhất thống chí, Ô châu cận lục, tư liệu các triều vua chúa… Ngoài sách viết bằng chữ Hán, chúng ta còn phải tìm trong những sách viết bằng tiếng Pháp, thí dụ như, tháp Tổ Liễu Quán, do toàn quyền thực dân Pháp là Sogny viết trong BAVH, năm 1928. Tổ khai sơn chùa Quốc Ân, do một cố đạo Thiên Chúa, Cardière viết (BAVH,1941)… Vì thế, vừa để được phổ biến cho Phật tử phương xa rõ biết, vừa để ghi lại một bảo tháp tuy mới nhưng đã đi vào lịch sử, vừa để kỷ niệm ngày giỗ đầu Hòa thượng Thích Trí Thủ, đặc biệt là những sự kiện chung quanh vấn đề hình thành bảo tháp; chúng tôi thiết nghĩ phác họa lại hình ảnh bảo tháp Hòa thượng là một vấn đề cần thiết.

Hiện tại, có hai bảo tháp, một theo kiểu cổ, một theo tự phát họa của Hòa thượng lúc sinh tiền. Nhưng cả hai đều mang màu sắc tân kỳ. Tháp kiểu cổ, được xây dựng tại khuôn viên chùa Báo Quốc Huế, theo mong cầu của Hòa thượng và cũng đã được môn phái nhất trí (có phụ bản đính kèm ở cuối bài) để bái vọng. Tháp xây bằng đá chẻ, bảy tầng, đường nét rất nghệ thuật, quang cảnh thật hùng vĩ. Nhưng tháp này hiện chỉ để bái vọng. Còn tháp được xây dựng tại khuôn viên Tu viện Quảng Hương Già Lam, nơi Hòa thượng đang an nghỉ là tháp rỗng, bảy tầng, kết hợp chan hòa sắc thái Việt Nam và mẫu hình kiểu kiến trúc của Phật giáo phương Nam. Đây là bảo tháp mà chúng tôi đang đề cập.

Thap HT Tri Thu to dinh Bao Quoc
Bảo tháp HT Thích Trí Thủ tại tổ định Báo Quốc, Huế (Ảnh: Internet)

Bảo tháp được tôn trí sau chánh điện về phía tay phải (từ ngoài nhìn vào) song hàng với Tổ đường, chệch về phía trái ngôi nhà lưu tàng vật kỷ niệm của Hòa thượng. So với toàn khuôn viên của chùa, khuôn viên của tháp chiếm khoảng 1 phần 8 diện tích, trong số hơn 400 thước vuông. Mặt tháp quay về hướng Tây. Khi vào cổng tam quan, đi qua dãy lầu phía tay phải, có vẻ sâu hun hút, chúng ta nhìn thấy bảo tháp bảy tầng. Trước tháp là một sân rộng tráng xi măng, với hai cấp đủ cho khoảng 500 Phật tử đứng hành lễ. Sân được trang trí với nhiều chậu cây kiểng, hoa lá và bồn cây, như mai, trắc bá diệp, sa kê, nguyệt quý.

Tháp đài cao bay tầng, khoảng 10 thước tây, uy nghiêm đẹp đẽ, nhưng khiêm nhường, thanh nhã. Châu tháp hình vuông rộng 9 thước tây, cao 9 tấc. Chung quanh chân tháp xây bằng gạch thẻ, ngoài gắn một lớp đá chẻ hình chữ nhật, màu xanh, kẻ mạch. Trên nền tháp, bao quanh bằng một lớp tường cao 6 tất, tô đá rửa màu xi măng đen. Khoảng giữa ba phía tường (sau và hai bên) có chậu xi măng gắn liền với tường, hình chữ nhật, rộng 5 tấc, dài 1 thước 3 tấc trồng sứ Thái Lan, hoa màu đỏ, tết đến khoe sắc với mai vàng. Bốn góc tường là bốn trụ vuông, mỗi bề 5 tấc, không cao hơn tường bao nhiêu (1 thước 3 tấc), trên gác bốn đèn chậu cũng bằng xi măng đen. Tường phía trước bảo tháp, cao giống tường ba phía, nhưng hai đầu không nối liền với trụ. Hai khoảng trống là hai cấp thang lên nền tháp, với năm cấp, rộng 9 tấc và bốn con kỳ lân chồm về phía chân thang.

Khoảng giữa tường, ngay với chánh điện bảo tháp là bia bằng xi măng, giữa gắn đá cẩm thạch màu đen, bề 60 phân, bề 90 phân tây. Lòng bia được khắc chữ in chân phương, sơn Trắng, rất nổi. Bài bia “Tưởng niệm” do Hòa thượng Thích Thiện Siêu kính ghi. Phía trước bia, nối liền với hai chân thang là một hồ cạn, hình bán nguyệt, đường kính 3 thước 7 tấc, giữa có 5 hòn non bộ, gọi là ngũ hành sơn: kim, mộc, thuỷ, hỏa thổ. Non bộ nhấp nhô trên mặt nước trong xanh và cá chép vàng bơi lội nhởn nhơ, tăng thêm vẻ hữu tình cho bảo tháp. Non nước quyện với nhau nói lên sự hội ngộ, trung hòa, không thiên lệch, có mặt này mà vẫn không thiếu mặt khác, vừa khế lý, vừa khế cơ, tùy lúc, tùy môi trường, sắc không diệu hữu, chân trực như thị. Có thế, công đức mới trang nghiêm.

“Như thị chân, như thị huyễn, như thị công đức trang nghiêm”(Câu kết của bài bia tưởng niệm cố Hòa thượng).

Trên nền tháp, còn có một đế tháp hình vuông, mỗi bề 4 thước 9 tấc, cao 8 tấc, trong đổ xà bần. Bốn phía xây gạch, ngoài gắn lớp đá Place, màu vàng sậm, nhiều hình, kẻ mạch. Trên mặt bằng, bao quanh chân trụ tháp, tô đá mài bằng xi măng trắng như một dãy lụa trắng cao viền, dài 4 thước 9 tấc, rộng 4 tấc.

Sừng sững trên tháp đài hai tầng là ngọn tháp cao bảy tầng, cũng hình vuông, đứng trên đài sen, trải sỏi trắng. Bao quanh đài sen là các cánh sen nở, ôm nâng bảo tháp. Tầng thứ nhất rỗng, cao 3 thước, rộng mỗi bề 1 thước 6 tấc tây, với bốn trụ tròn, có hình rồng nổi. Mặt sau, nối liền hai trụ là một bức phong mai, lan có rồng chầu mặt trăng, có hoa văn, chữ thọ, đường nét xuyên rỗng. Khung giữa là hình bán thân nhìn nghiêng của Hòa thượng hình đội mũ hiệp chưởng, mang y gấm, tay phải bắt ấn cam lồ, tay trái lần tràng hạt. Hình đắp bằng thạch cao, màu trắng ngà nằm trên khung hình chữ nhật, rộng 8 tấc, dài 1 thước 2, do một điêu khắc gia đình hình thành, với sự phụ trợ của một đệ tử Hòa thượng, Sư cô Diệu Trang. Giữa lòng tầng một của bảo tháp là tượng Phật A Di Đà, cao 1 thước 2 kể cả đài sen, do Hòa thượng thỉnh từ hồi còn sinh tiền. Tượng được tô đắp theo kiểu Trung Quốc, nhưng xiêm y không có màu sắc sặc sỡ mà thuần màu nhà chùa, vàng nhạt gần gũi với thị giác Việt Nam hơn. Tượng đứng trên nền sỏi trắng.

DSC 0234aBảo tháp tại Tu viện Quảng Hương Già Lam (Ảnh: Nhuận Pháp)

Trên tầng một của tháp là sáu tầng tháp hình dáng cổ lầu, được bóp dần để có hình tháp nhọn. Đỉnh tháp là hình tháp Xá lợi, kiểu nam truyền. Thân tháp toàn láng bằng xi măng. Các góc tháp nơi cong, có hình đầu long phụng. Các, hình rồng, phụng, lân mang ý nghĩa kiến trúc cổ truyền của đình chùa Việt Nam. Con số bảy tiêu biểu, theo truyền thống Ấn Độ. Bảy tầng tháp tiêu biểu cho lý tưởng siêu tuyệt viên mãn tối thượng của Đức Phật. Số tầng tháp xây cho các vị sư, tiêu biểu cho đức hạnh của vị sư viên tịch. Vào thời phong kiến, các Hòa thượng, Tăng cang và Trú trì được xây tháp từ 5 tầng đến 7 tâng. Còn những vị sư bậc dưới có thể xây từ 1 đến 3 tầng.

Trong lòng nền tháp dưới chân đức Di Đà là nơi tàng Kim quan của Hòa thượng, kim tĩnh đổ toàn cát suối. Phần dưới đáy kim tĩnh vẫn là đất vườn và cũng ngang bằng với mặt vườn, phần trên để trống, bốn phía xây gạch, có hình chữ nhật rộng một thước rưỡi, dài hai thước rưỡi. Trên dưới không xây, để trống, có mục đích để Hòa thượng tiếp cận cả thiên lẫn địa. Khi thiên, địa và nhân hài hòa, thiên hạ được thái bình thịnh vượng.

Mặt bằng của chân tháp dài trải toàn sỏi đá trắng. Kim quan được tôn trí bằng cách từ trên hạ xuống, chứ không đẩy từ hộc ngoài vào hộc trong như khi tháp các vị Hòa thượng đã sẵn có tháp phần. Kiểu nhập tháp, Kim quan được đẩy từ ngoài vào, ở Á đông chỉ dành cho nhà Vua và nhà Sư, người thường không được hưởng truyền thống như thế.

Kim quan của Hòa thượng là một loại gỗ quý. Phương pháp trị quan áp dụng theo lối cổ truyền đặc biệt. Những vật liệu để trị quan, gồm có 12 ký đất sét khô rây mịn, 1 ký xà phòng bột, 3 ký nếp nấu thành xôi nhão, 4 lít dầu phong, 3 xấp lá chuối hột, luộc chín. Ba thứ dầu quết trộn với nhau thành một chất dẻo, trét vào thành trong Kim quan, các kẻ mạch đắp thành hình con lươn bò quanh. Sau khi đất ráo và dính chặt vào gỗ, đổ dầu phụng vào vài ba cái mâm, tiếp theo cứ từng tấm lá chuối một thả vào dầu cho thật thấm đều rồi dán vào phía trong, cả nắp Kim quan. Nhờ phương thức trị quan như thế, Kim quan khỏi cần bọc kẽm mà vẫn để được cả tuần, kể cả sự chịu đựng chao động, khi rước từ chùa Già Lam đến chùa Xá Lợi, quàng tại đây cho các phái đoàn tụng niệm, phúng điếu, chiêm bái, và từ đây trở về nhập tháp tại khuôn viên chùa Già Lam, không có một điều gì đáng tiếc xảy ra.

Hình ảnh Bảo tháp do Hòa thượng phác họa, được thiết trí tại khuôn viên Tu viện Quảng Hương Già Lam. Nơi nhục thân Hòa thượng an nghỉ cũng chính là nơi mà nhiều lần cố Hòa thượng nói đùa, nay trở thành hiện thực. Hòa thượng thường hay nói: Lúc hết làm Phật sự, mình xin về Tổ đình Từ Hiếu đánh chuông hầu Tổ. Nếu muốn an nhàn thích hợp hơn, mỗi năm có bốn mùa, ở bốn nơi. Tết và xuân ở Huế, hè ở Sài Gòn, thu ở Nha Trang, đông ở Đà Lạt. Còn nếu Phật Tổ có gọi về khẩn cấp thì cứ quàng ở luống rau khoai này (tức nơi tôn trí Bảo tháp hiện nay), trong ba năm, rồi chuyển về Huế hầu bên cạnh tháp Tổ khai sơn, Tổ Giác Phong, Tôn Tào Động.

Bảo tháp tại Tu viện Quảng Hương Già Lam được khởi công xây dựng sau ngày cúng thất và hoàn chỉnh hình thành trong ngày đại tường của Hòa thượng, năm 1986.

IMG 2433aBia tưởng niệm (Ảnh: Nhuận Pháp)

Thích Minh Tuệ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Giới thuyết về Thiền uyển tập anh
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Trích yếu: Thiền uyển tập anh là bộ sử Phật giáo quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Thiền uyển tập anh tập hợp các tiểu truyện thiền sư trong khoảng gần 1000 năm lịch sử, hàm chứa các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, tôn giáo của Việt Nam từ...

Cuộc đời Tôn giả Rahula qua Kinh tạng Nikaya
Lịch sử, Nghiên cứu

Thế Tôn dạy cho Rahula phải biết quán xét, suy ngẫm tường tận điều nào đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai thì hãy buông bỏ để giữ cho mọi hành động của ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh trong sạch đưa đến sự an lạc giải thoát trong đời sống....

Chính quyền Chúa Nguyễn với các ngôi chùa Sắc tứ ở Đàng Trong (giai đoạn 1558-1777)
Lịch sử, Nghiên cứu

Các chùa sắc tứ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của chính quyền chúa Nguyễn, mặt khác, thông qua các hoạt động và thực hành nghi lễ Phật giáo với quy mô lớn, thời kỳ này các ngôi chùa sắc tứ đã tỏ rõ vai trò quan trọng trong việc xiển dương Phật...

Đi tìm cơ sở truyền thừa của Ni giới tại Việt Nam qua thư tịch Hán cổ
Lịch sử, Nghiên cứu

Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn. Ngay như tại Việt Nam, do đặc thù của các điều kiện lịch sử, thế nên nhiều nguồn thư tịch quý giá cổ xưa...

Hai bảo vật quốc gia ở chùa Sùng Khánh và chùa Bình Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Vị Xuyên – Hà Giang không chỉ nổi tiếng về phong cảnh thiên nhiên phong phú, nhiều phong tục tập quán, văn hóa truyền thống và những di tích lịch sử mang đậm nét bản sắc dân tộc, mà còn nhiều điểm du lịch tâm linh như: Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Vị Xuyên, đền thờ...

Chủ nghĩa Platon và giáo lý đạo Phật
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Thời đó, khoa học chưa phát triển, máy móc còn thô sơ nhưng họ hướng tới sự tìm tòi thế giới, bản tính con người một cách sâu sắc. Phật pháp ở thế gian, không xa sự giác ngộ của thế gian, tuy hai nền triết học khác nhau nhưng đều chung tư tưởng giúp...

Chấn hưng Phật giáo – Con đường truyền bá tư tưởng yêu nước của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Lịch sử, Nghiên cứu

Trong hành trình phương Nam, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp quan trọng cho phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Bộ… Tóm tắt: Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một người yêu nước. Trong hành trình trên mảnh...

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian qua trường hợp Thiền sư Từ Đạo Hạnh
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian ở vùng đồng bằng sông Hồng qua trường hợp thiền Sự Từ Đạo Hạnh đã tạo nên hỗn hợp Phật – Thánh mang tính quy chuẩn từ kiến trúc không gian thờ tự cho đến nội dung tôn giáo, trở thành một tổng thể tương đối...

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên… Tín ngưỡng thờ...

Bước đầu khảo cứu mộc bản kinh sách Phật giáo Đàng Trong thời chúa Nguyễn
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Thông qua hoạt động tổ chức khắc in kinh sách, chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền chúa Nguyễn với các vị cao tăng, bên cạnh đó là mối quan hệ gắn bó, cầu tiến, giúp đỡ lẫn nhau giữa các vị sư tăng ở các tông phái khác nhau....

Quá trình phát triển giáo dục Phật giáo miền Nam 1954-1981
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Giáo dục Phật giáo là nền tảng cho mọi hoạt động hoằng pháp của tăng ni, tri thức giúp họ gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp truyền thừa mạng mạch phật pháp. Lời mở đầu Lịch sử Việt Nam được hình thành và phát triển trên hai nghìn năm văn...

Bồ-tát Quán Thế Âm Trong Văn Hóa Tín Ngưỡng Của Người Việt
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người đều có hình ảnh về vị Bồ-tát luôn đầy lòng bi mẫn này. Ngài là một đối tượng tín ngưỡng thiêng liêng nhưng đồng thời là một người Mẹ thân thương luôn là chỗ dựa cho con cái trên đường đời lắm thác ghềnh,...

Thuyết tái sinh góp phần xây dựng giá trị đạo đức xã hội
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Theo nhân quả nghiệp báo thì một hành động thiện sẽ dẫn đến các cảnh giới tái sinh tốt đẹp, do đó, tinh thần bất bạo động được xây dựng dựa trên nền tảng từ bi vô ngã trí tuệ của Phật giáo. Tóm tắt: Thuyết tái sinh và nghiệp báo là một trong những chủ...

Hòa thượng Tâm An phụng sự Đạo pháp và Dân tộc
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Từ những buổi đầu Phật giáo suy vi, dân tộc chịu ách thống trị của thực dân Pháp, ngài tham gia cuộc chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ. Khi có Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngài tích cực tham gia phong trào Phật giáo Cứu Quốc. Dẫn nhập Phật...

Ảnh hưởng của đạo Phật đến các giá trị văn hóa xã hội
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Sự nhấn mạnh vào nhận thức bản thân, từ bi tâm và công lý xã hội đã biến đạo Phật thành một động lực kiên cường cho sự chuyển hoá tích cực. Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế...

Những đóng góp của triều đại nhà Trần đối với Phật giáo Việt Nam về văn hoá, tư tưởng
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Triều đại nhà Trần không chỉ là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong công cuộc khôi phục và phát triển đất nước, mà còn là thời kỳ đánh dấu sự thăng hoa của Phật giáo trong mọi lĩnh vực văn hóa, giáo dục và tinh thần của dân tộc. Chương I. Khái quát...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.