Theo các tài liệu cho biết rằng ngày xưa, ở Ấn Độ chỉ có một giống dân tên Negro da đen, tóc quăn, nhỏ con và mặt choắt. Họ không biết canh tác trồng tỉa gì cả. Hiện nay, giống dân này còn sót lại ở một số vùng cao tại Ấn Độ và châu Úc.
Đến thời kỳ 4000 năm trước khi đức Phật ra đời, mới có giống dân Dravidien (Tamil) vào Ấn Độ sinh sống, nguồn gốc của họ cũng mập mờ nhưng chắc chắn họ là giống dân bộ lạc da đen, thấp lùn, mũi tẹt, có trình độ văn minh khá cao, thậm chí còn lâu đời nữa là khác. Phần nhiều giống dân này sống tập trung ở miền hạ lưu sông Sindhu.
Tới khoảng 3000 năm trước thời đức Phật thì giống dân Ariyans mới du nhập vào Ấn Độ, họ thuộc giống người da trắng ở Âu châu, cụ thế là vùng biển hồ Caspienne. Ngoài ra, còn có những người Ariyans lưu lạc khắp nơi trên thế giới, ngày nay họ đã trở thành cựu dân của Âu châu, Afghanistan, Pakistan…
Đời sống của xứ Ấn Độ lúc bấy giờ chủ yếu là bằng nghề canh tác trồng trọt bởi mọi người chỉ biết trực tiếp nương dựa vào thiên nhiên mà sống. Rừng, núi, sông ngòi, biển cả chính là nguồn sống của dân Ariyans, nên họ mới thấy rằng chỉ có thiên nhiên là một cái gì đó thiêng liêng cao cả nhất. Cho dù thiên nhiên có khắc nghiệt hay sao đi nữa, họ luôn nghĩ rằng thiên nhiên là nguồn gốc để tạo ra mọi thứ. Họ kính sợ thiên nhiên vì thiên nhiên có thể ưu đãi hoặc trừng phạt được họ.
Ngoài việc thờ cúng trời đất, giống dân Ariyans còn là những kẻ tôn sùng thuyết Bái vật, họ nuôi bò rồi thờ lạy con bò, họ cấm giết bò.
Người Ariyans rất thạo nghề cưỡi ngựa, họ nuôi dạy ngựa rất hay, từ thời đó mà họ đã biết dùng ngựa vào việc đánh trận. Như đã nói, người Ariyans tôn sùng thuyết Bái vật, thích thờ thú linh nên họ thêu dệt ra đủ mọi huyền thoại mơ hồ chung quanh các thú dữ như cọp, sư tử, voi, rồng, rắn…
TÍN NGƯỠNG THỜI KỲ DÂN ARIYANS DU NHẬP VÀO ẤN ĐỘ
Giống dân Ariyans vốn sẵn chủ trương việc thờ cúng các hiện tượng thiên nhiên nên họ đã đem tín ngưỡng đó cùng du nhập vào đất Ấn. Họ thờ cúng mặt trăng, mặt trời, thần sét, thần mưa, thần gió, thần lửa…
Dần dần, rồi họ kết hợp tín ngưỡng của mình với nền tín ngưỡng của dân bản xứ để tạo ra một thần tượng mới mang tính chất sống động, linh hoạt hơn, đó là Thượng đế, đấng sinh thành của vạn loài.
Và từ sự kết hợp đó, đã làm nảy sinh một manh nha mới nữa trong tư tưởng mọi người là các chuyển đổi như sau:
- Chủ trương thờ cúng ma quỷ
Dân Cổ Ấn cho rằng con người ta khi chết rồi dù thân xác có rã tan nhưng thần thức vẫn tồn tại bất diệt và thần thức ấy cũng vẫn phải ăn uống như người sống, thế là họ bày ra chuyện cúng kiến, giỗ kỵ. Họ còn cho rằng cái vong hồn tức thần thức nọ có thể nhiễu hại, hay phù hộ người sống. Rồi để cho cái vong hồn đó được vừa lòng họ đã đưa ra đủ mọi cách thức cúng tế rườm rà.
Sau đó, họ cho rằng mỗi vong hồn sau khi chết sẽ bị dẫn đi sang thế giới của Diêm Vương nên khi cúng tế vong hồn người chết, họ cũng dâng lễ cho thiên thần để các vị này tiếp dẫn và phò trợ vong hồn họ. Rồi từ những quan niệm đó họ còn cho rằng không có con cái sau khi chết sẽ bị đọa vào một địa ngục tên là Aputtaka, cho nên người Ấn xưa rất coi trọng việc có con trai nối dõi.
- Chủ trương thờ thiên thần
Từ sự kết hợp tín ngưỡng của dân Ariyans đã làm nảy sinh ra niềm tin vào thiên thần, ma quỷ. Bởi họ muốn đối tượng thờ cúng của mình có chút gì đó sống động và linh thiêng hơn, hấp dẫn hơn. Họ phân ra ba hạng thiên thần là một hạng sống trên mặt đất, một hạng sống trên không trung và hạng cuối cùng là những thiên thần trên tiên giới.
Vào thời kỳ thánh thư Veda ra đời, người ta còn thêu dệt thêm rất nhiều huyền thoại về khả năng, uy lực của các thiên thần mà họ tôn xưng là những đấng quyền phép.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA BÀ-LA-MÔN GIÁO
Trích PHẬT GIÁO SỬ – Tác giả: Ṭhitañāṇathera
Dịch giả: sư Giác Nguyên (Toại Khanh)