Tóm tắt: Lý Hoặc Luận (理惑论) là một tác phẩm của thời kỳ đầu Phật giáo truyền vào Trung Quốc, do một học sĩ tên là Mâu Tử (Mâu Bác) trước tác. Nội dung chính là giảng giải và lý luận về Phật giáo ngoại lai, nhằm kết hợp Phật giáo với tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo cùng những quan điểm truyền thống văn hóa bản địa, để xây dựng lại cấu trúc mới về cách nhìn của các nhân sĩ Trung Quốc đương thời đối với các vấn đề thánh phàm, đạo lý luân thường… phối hợp chặt chẽ ba tôn giáo Nho, Phật và Đạo trên cơ sở “Tam giáo nhất trí luận”. Tư tưởng Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo) nhất trí luận được hình thành sớm nhất qua tác phẩm Lý Hoặc Luận.
Từ khoá: Lý Hoặc Luận, Mâu Tử, Tam giáo nhất trí luận.
DẪN NHẬP
Phật giáo truyền vào nội địa Trung Quốc theo đường bộ và đường thủy. Đường bộ là “Con đường tơ lụa” qua các vùng Tây vực mà truyền vào (hai hướng, Bắc: từ Bắc Đôn Hoàng mãi đến Sơ Lặc (疏勒) (nay là Khách Thập Bố Tân Cương) và Nam: từ Tây Đôn Hoàng (敦煌) mãi đến Sa Xa (莎车). Đường thủy qua Sri-Lanka, Trảo Oa (爪哇-Java), Bán đảo Mã Lai (Malay Peninsula-马来半岛), Việt Nam rồi đến Quảng Châu, rồi chuyển đến nội địa [1]. Theo các học giả, đường biển muộn hơn đường bộ một khoảng thời gian bởi địa lý hiểm trở.
Tuy nhiên, thời gian Phật giáo truyền vào Trung Quốc đến nay vẫn chưa có tính nhất quán và chuẩn xác, bởi tính xuyên tạc của các tín đồ Tam giáo do sự tranh giành địa vị cao thấp mà đưa ra các mốc thời gian khác nhau, vấn đề này được sử liệu ghi chép lại. Tuy nhiên, cũng có sử gia Trung Quốc đưa ra kết luận: “Thời kỳ Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, vào khoảng cuối nhà Tây Hán và đầu nhà Đông Hán, chính là khoảng thời gian trước hoặc sau nữa thế kỷ thứ nhất đầu Công nguyên. Điều này có thể tìm thấy từ một số sự kiện lịch sử đáng tin cậy” [2]. Cũng trong thời kỳ Đông Hán, các đạo sĩ lợi dụng thế mạnh của Đạo giáo mà lưu truyền thuyết Lão Tử Hóa Hồ để bài xích Phật giáo. Đương nhiên tín đồ Phật giáo cũng không kém cho rằng: “Sa môn ngoại quốc Thích Lợi Phòng (释利防) cùng những người khác, tổng cộng mười tám Hiền giả mang kinh Phật đến giáo hóa Thủy Hoàng” [3]. Về sau, các triều đại phong kiến Trung Quốc phải chứng kiến những cuộc tranh luận gay gắt của ba tôn giáo đương thời Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
Nhằm xoa dịu các cuộc tranh luận đó, Mâu Tử đã trước tác Lý Hoặc Luận với nội dung cốt yếu là dung hợp tư tưởng của ba tôn giáo Nho, Lão và Phật, cũng gọi là “Tam giáo nhất trí luận”. Luận này được các nhà sử học Trung Quốc nhận định hình thành sớm nhất trong sử liệu. Tác phẩm nhằm chứng minh Phật giáo không hề mâu thuẫn hay trái ngược đối với những đạo lý của Nho giáo và Đạo giáo ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Ông đã dùng Nho giáo và Đạo giáo để giải thích Phật giáo. Đây chính là phương pháp thuyên giải tư tưởng Phật giáo của Mâu Tử. Phương pháp “cách nghĩa” (格義) này về sau được ngài Đạo An (314-385) và ngài Huệ Viễn (334-416) sử dụng rất nhiều, là hai đại biểu nổi tiếng nhất của phương pháp thuyên thích, sử dụng phương pháp “cách nghĩa” để giải thích tư tưởng Phật giáo trong buổi đầu du nhập Trung Hoa.
Nho giáo và Đạo giáo là hai luân lý lớn nhất trong hệ thống văn hóa Phật giáo Trung Quốc. Phật giáo Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc cùng với hai tôn giáo truyền thống là Nho giáo và Đạo giáo phát triển và tồn tại ở Trung Quốc. Tuy nhiên, hệ thống tư tưởng của cả ba tôn giáo đều có sự bất đồng quan điểm, như cách nhìn về vũ trụ quan, xã hội quan và nhân sinh quan đều có điểm khác nhau rất lớn, lý tưởng mục đích cho đến con đường hiện thực và phương pháp của cả ba tôn giáo cũng có sự khác nhau không nhỏ. Nhưng Phật giáo không những hiểu được tầm quan trọng của việc “nhập gia tùy tục”, mà luôn vận hành theo nguyên lý “tùy duyên bất biến”, nên Phật giáo đều thích ứng được trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, một mặt rất chú trọng đến việc nương tựa tư tưởng văn hóa truyền thống và giai cấp thống trị, mặt khác cũng lấy “phương tiện thiện xảo” làm điểm tựa lý luận, đồng thời nỗ lực hòa hợp với những mâu thuẫn tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo. Không ngừng đưa Nho và Đạo vào trong Phật giáo để tìm ra những luận chứng về tánh căn bản của Phật, Nho, Đạo là tương đồng nhau, từ đó tích cực đề xướng “Tam giáo nhất trí luận”.
KHÁI QUÁT THỜI GIAN RA ĐỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA “LÝ HOẶC LUẬN”
Phật, Nho và Đạo “Tam giáo nhất trí luận” được đề xuất sớm nhất trong tư tưởng lịch sử Trung Quốc, thành sách ở Lý Hoặc Luận [4] của Mâu Tử vào thời Tam Quốc cuối đời Hán. Luận này trừ đi lời tựa và lời bàn, chánh văn có 37 chương, tập trung phản ánh thời kỳ đầu Phật giáo truyền vào Trung Thổ bắt đầu bị phản ứng bởi các sĩ phu tôn sùng Nho, Lão; cũng là tài liệu lịch sử cực kỳ quan trọng cho chúng ta khảo sát tình hình Phật giáo lưu truyền ở thời kỳ Tam Quốc-Đông Hán. Văn chương được sử dụng trong tác phẩm này là phương pháp vấn đáp, người thẩm vấn đại diện cho sự nghi ngờ và phản đối của hầu hết mọi người trong xã hội đương thời đối với Phật giáo ngoại lai. Mâu Tử đứng trên lập trường Phật giáo để trả lời, ông dùng lời lẽ phổ biến dẫn chứng mang nặng tư tưởng Lão Tử và Khổng Tử để biện minh cho Phật giáo, rằng luận chứng Phật giáo và tư tưởng Nho, Đạo truyền thống chẳng phải khác. Các câu hỏi và câu trả lời chủ yếu tập trung vào ba vấn đề đối với Phật, giáo lý Phật giáo và đời sống tu sĩ Phật giáo.
DUNG HỢP VỀ ĐẤNG TỐI TÔN
Đối với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Mâu Tử đưa ra lập luận dựa trên tính căn bản “Tam hoàng Ngũ đế” [5] của Trung Quốc và “Chí nhân”, “Chân nhân” của Đạo giáo chẳng có gì khác nhau. Mâu Tử một mặt lấy việc tôn sùng “Tam hoàng Ngũ đế” của Nho gia để so sánh sự tương xứng với Đức Phật, nêu ra những hình tượng cụ thể có diện mạo đặc biệt là “mày dài và có tám màu sắc, mắt của vua Thuấn Ngu có hai con ngươi” [6], đây là tướng mạo đặc thù của các vị thánh hiền vốn có trong truyền thuyết Trung Quốc… để biện luận về 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Đức Phật cũng chẳng có gì lấy làm lạ. Mặt khác, Mâu Tử còn dùng lời lẽ Đạo giáo thần tiên để giải thích về Đức Phật, cho rằng “Phật là nguyên tổ của đạo đức” [7], có khả năng “đi trên lửa không cháy, bước trên dao không bị thương” [8], “muốn đi thì bay, ngồi thì có hào quang chiếu sáng” [9].
DUNG HỢP VỀ QUAN ĐIỂM GIÁO NGHĨA
Đối với giáo lý Phật giáo cũng vậy, Mâu Tử lấy tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo để giải thích, ông ta cho rằng “Đạo là lời để hướng dẫn, hướng dẫn người đến chỗ vô vi”[10], tức cho là đạo Phật dạy người tu tập để đạt đến giải thoát, Niết bàn. Niết bàn của Phật giáo được Mâu Tử dùng khái niệm “vô vi” của Đạo giáo để mô tả. Loại vô vi mà ông ta nói là trạng thái “thanh đạm vô vi” của Lão Tử, cho nên Mâu Tử nói thêm: “Phật và Lão Tử đều là chí vô vi vậy” [11]. Bấy giờ cũng có người chỉ trích loại đạo hư vô ngớ ngẩn này khác với giáo nghĩa thánh hiền của Khổng Tử. Mâu Tử đáp rằng: “Đạo trời theo khuôn khổ bốn mùa, đạo người theo khuôn khổ năm thường… Đạo là muôn vật, ở nhà có thể phụng thờ cha mẹ, chủ nước có thể dùng trị dân, một mình có thể dùng sửa thân. Theo đó mà làm gọi là đạo trời đất, bỏ mà không dùng thì mất mà không rời. Ông không hiểu được, có chi là lạ?”[12]. Ở đây, Mâu Tử muốn luận chứng điểm giống nhau giữa Phật giáo và tư tưởng truyền thống, không chỉ cải tạo đạo xuất thế của Phật giáo mà còn cải tạo đạo tự nhiên của Lão Tử, lập luận Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo đều thống nhất trên luân lý của Nho gia là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ở quan điểm của Mâu Tử, Đạo Phật và Đạo tự nhiên của Lão Tử cho đến đạo ngũ thường của Nho gia tuy không giống ở hình thức, giáo nghĩa nhưng cuối cùng tương đồng ở chỗ đều có tác dụng tu sửa và rèn luyện bản thân, giúp ích xã hội, góp phần xây dựng đất nước. Do đó, quan điểm Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo tuy không giống nhau, nhưng đều có thể tồn tại và phát triển cùng nhau trong đất nước Trung Hoa.
DUNG HỢP VỀ PHƯƠNG THỨC TU HÀNH
Còn như lập luận về đời sống xuất gia tu hành của Phật giáo cùng với Nho giáo và Đạo giáo trên hình thức thì khác nhau, trả lời của Mâu Tử là “Nếu có đức lớn thì không câu nệ vào những chi tiết nhỏ” [13], điều này nói lên lòng độ lượng, đại từ bi của người xuất gia trong Phật giáo, cũng đồng nghĩa với bác ái của bậc quân tử trong Nho giáo. Riêng cuộc sống của người xuất gia khi bị chỉ trích là không lễ lạy cha mẹ và người thân, trái với nhân hiếu của Nho gia. Ông lại nói rằng mặt ngoài như thế, nhưng trên thực tế một khi thành tựu Phật đạo thì “Cha mẹ anh em đều được độ”[14], như thế không phải là đại hiếu sao? Điều này có thể chứng minh đời sống xuất gia tu hành của Phật giáo, trên căn bản mà nói không trái với lễ, không ngược với đức của Nho giáo vậy.
KẾT LUẬN
Tư tưởng “Tam giáo nhất trí luận” trong Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, hầu như tồn tại xuyên suốt tác phẩm, nhằm nhấn mạnh tác dụng tương đồng trong xã hội của học thuyết ba nhà. Đây chứng tỏ rằng sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc đã được tiếp nhận, tồn tại và phát triển vững chắc ở Trung Quốc. Bởi vì Phật giáo đã nhanh chóng điều hòa dung hợp với văn hóa tư tưởng truyền thống, để dành được sự chấp nhận, ủng hộ nhiệt tình của những nhà lãnh đạo cũng như dân chúng.
Mâu Tử trong Lý Hoặc Luận đã ra sức đề xướng Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo là một. Việc Mâu Tử trích dẫn thuyết “Lão Tử” của Đạo giáo để tiến hành phê bình phương thuật Thần tiên đối với Đạo giáo Nguyên thủy. Điều này không chỉ thấy rõ Phật giáo tùy thời mà truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc, con người từ từ phân biệt được sự khác nhau giữa Phật giáo và phương thuật thần tiên, mà còn thấy rõ Phật giáo vào thời Tam Quốc và cuối đời Hán đã bắt đầu từng bước tách khỏi phương thuật Hoàng Lão, để hướng đến sự hòa hợp và lưu truyền Huyền học Phật giáo thời Ngụy Tấn. Đây cũng phản ánh rằng Phật giáo và Đạo giáo ngay từ đầu đã có mâu thuẫn. Do đó, tư tưởng “Tam giáo nhất trí luận” trong tác phẩm Lý Hoặc Luận không chỉ đánh dấu mốc khởi điểm trong quan hệ Tam giáo, mà còn là cách xử lý khéo léo những mâu thuẫn cũng như vai trò của từng tôn giáo trong xã hội Trung Quốc thời bấy giờ.
Mâu Tử khởi xướng tư tưởng “Nhất trí luận cả Phật, Đạo và Nho”, chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa Phật giáo ngoại lai với hệ tư tưởng, văn hóa truyền thống thời kỳ đầu truyền nhập và xu hướng diễn biến phát triển của mối quan hệ này. Tam giáo nhất trí luận trong Lý Hoặc Luận không chỉ thêm một bước tiến phát triển đối với Phật giáo ở Trung Quốc, mà còn phát triển đối với toàn bộ tư tưởng văn hóa Trung Quốc, chúng đều ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc. Về giá trị thực tiễn, quá trình truyền bá Phật giáo ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, một tôn giáo ngoại lai không ngừng truyền bá, phát triển và từng bước bản địa hóa vào một nền văn hóa của từng địa phương. Đây chính là tinh thần “tùy duyên bất biến”, khế lý, khế cơ, khế thời, khế xứ của Phật giáo vậy.
Tác giả bài viết: SC.TS. Thích Nữ Phước Tường*
Nguồn: tapchivanhoaphatgiao.com
Link bài viết gốc: Tư tưởng Tam giáo nhất trí luận trong tác phẩm Lý Hoặc Luận (SC.TS. Thích Nữ Phước Tường) – Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo (tapchivanhoaphatgiao.com)
Chú thích:
* SC.TS. Thích Nữ Phước Tường, Giảng viên HVPGVN tại TP HCM, hiện đang công tác tại Trường Đại học Thành Công – Đài Loan.
[1] Hồng Tu Bình (洪修平), “中国佛教文化历程(Lịch Trình Văn Hóa Phật Giáo Trung Quốc)”, Nxb. Giáo Dục Giang Tô, 2005, tr.31
[2] Lại Vĩnh Hải (赖永海) chủ biên, “中国佛教-百科全书(Phật giáo Trung Quốc-Bách Khoa toàn thư )” quyển 3, Nxb. Cổ Tịch Thượng Hải, 2000, tr.3: “印度佛教传人中国的大致年代,应该是在西汉末年和东汉初年之间,正是公元一世纪初叶前后,这可以从一些史实中找到比较可靠的根据。”
[3] Pháp Lâm (法琳) (《广弘明集-对傅奕废佛僧事》Quảng Hoằng Minh Tập-Đối Phụ Dịch Phế Phật Tăng Sự), quyển 11: “外国沙门释利防等一十八贤者赍持佛经来化始皇”
[4] Hồng Tu Bình (洪修平), “中国佛教文化历程(Lịch Trình Văn Hóa Phật Giáo Trung Quốc)”, Nxb. Giáo Dục Giang Tô, 2005, tr.49.
[5] 《唐護法沙門法琳別傳》卷1:「三皇五帝必是大聖。孔丘豈容隱而不說。便有匿聖之愆
。以此挍量。推佛為大聖也。」(CBETA, T50, no. 2051, p. 200, b8-10).
[6] 《佛祖歷代通載》卷5:「堯眉八彩。舜目重瞳」(CBETA, T49, no. 2036, p. 511, b22).
[7] 《佛祖歷代通載》卷5:「佛乃道德之元祖」(CBETA, T49, no. 2036, p. 510, c16-17).
[8] 《佛祖歷代通載》卷5:「蹈火不燒履刃不傷」(CBETA, T49, no. 2036, p. 510, c19-20).
[9] 《解惑篇》卷1:「欲行則飛,坐則揚光」(CBETA, J35, no. B325, p. 443, c29).
[10] 《佛祖歷代通載》卷5:「道之言導也。導人致於無為」(CBETA, T49, no. 2036, p. 510, c22-23).
[11] 《佛祖歷代通載》卷5:「佛與老子無為志也」(CBETA, T49, no. 2036, p. 512, a18).
[12] 《佛祖歷代通載》卷5:「天道法四時。人道法五常。老子曰。有物混成先天地生可以為天下母。吾不知其名。強字之曰道。道之為物。居家可以事親。宰國可以治民。獨立可以治身。履而行之充乎天地。廢而不用消而不離。子不解之。何異之有乎。」(CBETA, T49, no. 2036, p. 511, a2-7).
[13] 《佛祖歷代通載》卷5:「苟有大德不拘於少」(CBETA, T49, no. 2036, p. 511, c12).
[14] 《弘明集》卷1:「父母兄弟皆得度世」(CBETA, T52, no. 2102, p. 4, a12-13).
Tài liệu tham khảo: 1.《佛祖歷代通載》卷5 2.《弘明集》卷1 3. Hồng Tu Bình (洪修平), “中国佛教文化历程 (Lịch Trình Văn Hóa Phật Giáo Trung Quốc)”, Nxb. Giáo Dục Giang Tô, 2005. 4. Lại Vĩnh Hải (赖永海) chủ biên, “中国佛教-百科全书(Phật giáo Trung Quốc-Bách Khoa toàn thư)” quyển 3, Nxb. Cổ Tịch Thượng Hải, 2000.