Dẫn nhập
Với chiến công của Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm lược trên dòng Bạch Đằng vào mùa đông năm 938 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho trang sử Việt: Kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ đó, một thời đại mới được mở ra, mà các nhà nghiên cứu đã định danh là “Thời đại Lý – Trần” ngót 500 năm trải qua các triều đại: Ngô (939-965), Đinh (968-980), Tiền Lê (981-1009), Lý (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414). Đây là một thời đại mà cha ông ta đã tìm cách thoát Trung sau hơn một ngàn năm bị bọn chúng đô hộ. Thời đại này có ba nét đặc trưng chính: (1) Thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng; (2) Thời đại phục hưng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; (3) Thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, nhân từ, rộng mở và dân chủ1.
Nối tiếp việc làm của nhà Lý, các vua nhà Trần cũng vì yêu cầu của thời đại nên đã xây dựng một ý thức hệ độc lập. Cuộc ra đi của hai ông cháu nhà Trần (Thái Tông và Nhân Tông) là minh chứng hùng hồn cho việc xây dựng trên. Nếu cuộc ra đi của Thái Tông không trọn vẹn, thì cuộc ra đi của Nhân Tông đã toại nguyện và nhà vua đã tiến hành công việc này một cách vững chắc, toàn diện và triệt để. Kết quả là Thiền phái Trúc Lâm của nước Đại Việt ra đời.
1. Từ Thiền phái Trúc Lâm đời Trần
Thiền phái Trúc Lâm do ngài Trần Nhân Tông sáng lập năm 1299. Năm 1293 Ngài nhường ngôi vua cho con là Trần Anh Tông, rồi xuất gia tu hành tại chùa Khai Phúc thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), đến năm 1299, Ngài đến Yên Tử (Quảng Ninh) thành lập Thiền phái Trúc Lâm. Tại đây, Ngài tu tập khổ hạnh, lấy đạo hiệu là Hương Vân Đại đầu đà.
Thiền phái Trúc Lâm ra đời với hệ thống tổ chức và kinh sách như một tổ chức tôn giáo, một giáo hội Phật giáo Thiền tông độc lập mang bản sắc văn hóa tư tưởng Việt. Tìm hiểu hệ thống Thiền học Trúc Lâm Yên Tử không chỉ đơn thuần là tìm hiểu giáo chỉ của ba vị Tổ: Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang mà còn phải tìm hiểu tư tưởng cùng vai trò đóng góp của các nhân vật trước đó: Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung và Trần Thánh Tông. Chính các vị này là người đã đặt nền móng vững chắc về mặt tư tường để sau đó Phật Hoàng Trần Nhân Tông thành lập Thiền phái Trúc Lâm. Trước đó, ở nước ta đã có ba Thiền phái đang truyền thừa là dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, dòng Vô Ngôn Thông và dòng Thảo Đường.
Thiền tông với lý thuyết duy tâm khách quan, với quan điểm từ bi bác ái, với tinh thần rộng mở phóng khoáng, và khả năng dung hợp nhiều hệ tư tưởng khác nên tỏ ra có khả năng ưu việt hơn so với hệ tư tưởng khác trong việc truyền bá rộng rãi. Nhà Trần lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu cho thời đại nhưng cũng thay đổi chút ít nội dung cho phù hợp và đạt những mục đích mà xã hội yêu cầu. Phật hoàng Trần Nhân Tông lập ra Thiền phái mới nhằm bốn mục đích: (1) Biểu lộ tính độc lập dân tộc; (2) Thay đổi phần nội dung tiêu cực và thân ngoại nhằm mục đích thoát Trung; (3)Thể hiện sự thống nhất ý thức hệ, lấy Phật giáo Thiền tông làm trụ cột cốt lõi chính; (4) Tạo nên một Thiền phái mới, một Phật giáo mới mang bản sắc Việt, để thống nhất giáo hội Phật giáo: Phật giáo nhất tông. Đây là một giáo hội Phật giáo chủ trương nhập thế, hộ quốc an dân, vô ngã vị tha.2
Với những mục đích trên, dòng Thiền Trúc Lâm đã có những thành tựu rõ rệt. Bản thân và hành trạng của vị Sơ tổ Trúc Lâm đã là minh chứng cho một Giáo chủ của Thiền phái mới này. Trần Nhân Tông được tôn vinh là Phật Hoàng với những huyền thoại: Phật giáng sinh (Biến Chiếu Tôn), Thần Tiên giáng trần (Kim Phật Kim Tiên đồng tử). Thái tử Khâm – Trần Nhân Tông một vị vua, một giáo chủ, một vị anh hùng. Xưng là Phật vì sáng lập ra tôn giáo mới, gọi là Tiên vì phong cách tiêu dao kiểu Lão – Trang. Nói là người anh hùng vì đã hai lần chỉ huy đánh tan giặc Nguyên Mông hung hãn vào năm 1285 và 1287-1288. Cuộc đời hành đạo của Trần Nhân Tông chẳng khác nào Đức Phật Thích Ca. Trần Nhân Tông bỏ ngôi vào Yên Tử sơn, tắm ở Ngự Dội, thiền định dưới gốc cây tùng như Thái tử Tất Đạt Đa, từ giã cung vàng điện ngọc vào Tuyết sơn (Hymalaya), tắm ở sông Ni Liên Thuyền Na, ngồi thiền định dưới gốc cây Tất Bát La (Bồ Đề). Sau khi đắc đạo, Trần Nhân Tông dắt hai môn đệ là Pháp Loa, Huyền Quang đi thuyết pháp ở Sùng Nghiêm, Siêu Loại như đức Thích Ca dẫn dắt ngài Ca Diếp và A Nan đi thuyết pháp khi ở Lộc Uyển, lúc ở Vương Xá thành, ở vườn cây của Kỳ Đà của trưởng giả Cấp Cô Độc v.v… Nếu Đức Thích Ca nhập diệt trong tư thế nằm nghiêng, tay phải gối đầu, tay trái duỗi thẳng theo thân (tư thế nhập Niết bàn) thì Nhân Tông hóa theo kiểu sư tử ngọa. Tóm lại, để trở thành Giáo chủ mới, Nhân Tông đã mô phỏng lại việc làm của Đức Phật Thích Ca ngày xưa. Không phải ngẫu nhiên mà Nhân Tông cho xây dựng hệ thống kiến trúc Yên Tử thành ba bậc chính: Giải Oan, Vân Yên, Vân Tiêu và trên cùng là bia chữ Phật hòa nhập trong không gian bao la để tượng trưng cho ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và bia chữ Phật kia tượng trưng cho Giải thoát. Đây chính là biểu hiện quan niệm của Thiền phái Trúc Lâm.3
Tất cả là cơ sở để có thể tìm hiểu tư tưởng của Thiền phái này. Điều thuận lợi là các vị Tổ Trúc Lâm và những vị đặt nền móng về tư tưởng cho Thiền phái đều có trước tác để lại, dù đã bị mất mát nhiều, hiện chỉ còn một ít, nhưng qua đó người đời nay cũng có thể hiểu được tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm tương đối có hệ thống. Thư tịch cổ cho biết Trần Thái Tông viết khá nhiều, nhưng hiện chỉ còn Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam tự, Lục thì sám hối khoa nghi, Phổ thuyết, Luận văn, Ngữ lục, Niêm tụng kệ (tất cả được người đời sau khắc in trong Khóa hư lục)và một ít thơ; Tuệ Trung Thượng Sĩ thì còn thơ, kệ và Thượng sĩ ngữ lục (Đối cơ, tụng cổ); Trần Thánh Tông hiện chỉ còn một ít thơ kệ, thư từ bang giao; Trần Nhân Tông soạn Thạch Thất mỵ ngữ, Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục, Tăng già toái sự, Đại Hương Hải ấn thi tập, Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền đạo ca; Nhưng hiện chỉ còn một bài phú, một bài ca và ngữ lục Sư đệ vấn đáp, bài văn Thượng Sĩ hành trạng, cùng một số bài kệ, 32 bài thơ, một thư từ bang giao; Pháp Loa viết Đoạn sách lục, Tham Thiền chỉ yếu, hiện chỉ còn một bài kệ, một bài tán, một bài văn Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn, một ngữ lục Trúc Lâm đại tôn giả thượng tọa thính sư thị chúng; Huyền Quang trước tác Ngọc tiên tập, Vịnh Vân Yên tự phú và soạn Phổ Tuệ ngữ lục, hiện chỉ còn một bài phú và 24 bài thơ.
Xét nội dung triết lý tư tưởng phái Trúc Lâm chủ yếu chúng tôi khảo sát Khóa hư lục và Thượng sĩ ngữ lục, cùng Thiền tông chỉ nam tự vì qua một số tác phẩm còn lại của ba vị Tổ Trúc Lâm, về nội dung cơ bản là nhất trí với hai vị có công đầu trong việc đặt nền móng quan điểm tư tưởng cho việc thành lập Thiền phái này.
Khóa hư lục là một bản kinh Phật đời Trần dùng để đọc tụng sáu lần trong một ngày đêm, mỗi lần đọc tụng nhằm giữ một trong sáu căn cho thanh tịnh. Đây là phần thực dụng của Kinh. Bên cạnh phần lý thuyết trình bày quan niệm của Thiền phái về vấn đề cơ bản của đạo Phật như Phật, Tâm, Thiền, Nhân sinh, Nguyên nhân của mọi khổ đau và Giải thoát. Nếu Thiền tông truyền thống thường thực hành Thiền định chứ ít chú trọng đến Niệm, thì Thiền Trúc Lâm đã kết hợp cả hai: Thiền định và niệm Phật. Một sự kết hợp giữa Tịnh độ tông và Thiền tông. Thiền Trúc Lâm ít nhiều còn có pha màu sắc Đạo giáo, chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão – Trang. Một số bài kệ, bài thơ của Tuệ Trung như Sinh tử nhàn nhi dĩ, Phóng cuồng ngâm vài đoạn trong Khoá hư lục, Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là những dẫn chứng cho nhận định trên.
Còn đây là sự kết hợp tư tưởng Lão – Trang trong con người thiền sư với thú tiêu dao, tự tại, hòa đồng thiên nhiên chẳng khác nào một đạo sĩ ung dung, xem đời như giấc mộng:
– Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý,
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chú tri âm.4
– Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao,
Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hý.5
– Y cẩu phù vân biến thái đa,
Du du đô phó mộng Nam kha.
(Cuộc đời như đám mây nổi luôn đổi thay nhiều vẻ, Mơ màng đành phó cho giấc mộng Nam kha.)6
Có lẽ, quay về với thiên nhiên là cách để các vị xa lánh cõi đời, để diệt dục, giúp cho tâm thanh tịnh mà hành Thiền, chứ không ngoài mục đích nào khác.
Bàn về Phật, Trúc Lâm chủ trương “Phật không có trong núi mà chỉ có trong lòng” nếu “Lòng lặng lẽ mà biết, chính là Phật vậy”. Trúc Lâm đã kế thừa ý kiến của Huệ Năng khi cho rằng “Phật và Thánh vốn không khác gì nhau” và bổ sung thêm, tuy đi hai con đường khác nhau nhưng cả hai cùng đưa con người đến một mục đích và chủ trương Phật, Thánh phân công hợp tác7. Như vậy, theo Trúc Lâm, Phật chính là ta, là tâm. Một quan niệm đồng nhất trong sai biệt. Nhờ quan điểm này mà Thiền phái Trúc Lâm gần gũi với tư tưởng Thiền Nguyên thủy hơn, dĩ nhiên, Trúc Lâm cũng có những kiến giải của riêng mình. Trần Nhân Tông đã phát biểu:
– Chỉn bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.
– Vậy mới hay: Bụt ở cùng nhà, chẳng phải tìm xa.
– Nhân khuy bản ta nên tìm Bụt; Đến cóc hay chỉn Bụt là ta.8
Phật là tâm. Tâm là một cái gì trừu tượng như Phật tính: “Tâm vương vô tướng hựu vô hình”9.
Trúc Lâm chủ trương muốn hiểu rõ tâm phải ngồi Thiền. Ngôi Thiền để tĩnh tâm, ngăn ác hướng thiện. Trúc Lâm không chọn con đường “Quán bích tọa Thiền” mà chủ trương “Niệm Phật, thụ giới và tọa thiền”. Niệm Phật là cách tự giáo dục, tự ức chế để giữ miệng và tâm thanh tịnh. Thụ giới là cách răn giữ bản thân theo giới luật nhằm để cho thân trong sạch và không làm điều ác. Niệm Phật, thụ giới, toạ thiền là cách giữ cho thân, khẩu, tâm của người học đạo không thể làm, nói, nghĩ đến điều ác. Điều ác không sinh tức điều thiện phát khởi. Có lẽ vì thế mà Trần Thái Tông soạn Khóa hư lục để người tu Phật tụng niệm. Khóa hư lục còn trình bày về năm giới răn của Phật mà người tu hành phải triệt để tuân theo. Có điều, qua việc trình bày giới luật, Trúc Lâm đã biến nó thành những bài học luân lý hơn là giáo lý nhà Phật, với mục đích nhằm bình ổn trật xã hội lúc bấy giờ. Khóa hư lục khuyên răn con người không được tham lam của cải, sắc đẹp, rượu nồng, thịt béo, công danh phú quý. Do lòng tham đó mà dẫn dắt người ta đi đến trộm cướp, bè phái, khinh vua, ghét cha, nhạo Tăng, chửi Phật… Khóa hư lục còn kêu gọi con người nên làm việc thiện, bố thí cho kẻ nghèo, thương yêu người khác, tôn trọng phép nước, kính cha thờ vua… Đây chính là cốt lõi nhập thế hộ vương, hộ quốc an dân của đạo Thiền Trúc Lâm.
Thiền Trúc Lâm cũng phát biểu quan niệm về nhân sinh. Các vị xem chuyện sống chết là thường tình và chấp nhận cuộc sống một cách khách quan, bài kệ Khuyến chúng của Trần Thái Tông: Sinh lão bệnh tử, Lý chi thường nhiên”10; bài kệ của Trần Nhân Tông đọc cho Pháp Loa nghe trước khi tịch diệt: Nhất thiết pháp bất sinh, Nhất thiết pháp bất diệt11 đã chứng minh cho quan niệm này. Chính Tuệ Trung, người thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đã từng phát biểu: “Phù sinh tử, lý chi thường nhiên, an đắc bi luyến, ưu ngô chân dã.” (Sông chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta ? – Thượng sĩ hành trạng)12.
Cuộc sống là một thực thể tồn tại khách quan không thể phủ nhận nên thiền sư phái Trúc Lâm đều an nhiên trước cái chết, xem cuộc đời là vô thường. Chết chỉ là một chặng đường khác. Như vậy, Thiền phái Trúc Lâm tiếp thu quan niệm nhân sinh của Đại Đại thừa Phật giáo. Họ chấp nhận cuộc sống, cái chết mà không luyến tiếc. Các vị quan niệm không có gì sinh ra hay mất đi nên làm gì có việc đi và đến. Đó là quan niệm “Thân ảo ảnh chẳng khác phù vân”, “Pháp thân thường trú, phổ mãn thái hư” của Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Các vị cho rằng cái thân đang tồn tại là do dục. Diệt được dục tức giải thoát khỏi sinh tử. Quan niệm trên đã phản ánh một nhân sinh quan tương đối, không sa vào hai cực, không tham sống sợ chết một cách yếu đuối. Phải chăng do hào khí thời đại, do cuộc đấu tranh sinh tử của dân tộc thời Lý – Trần đã ảnh hưởng tới nhân sinh quan này? Có lẽ vì thế mà phái Trúc Lâm cũng như các Thiền phái trước đó của thời Lý – Trần lại gần gũi với đời, trở về với cuộc sống trần thế hơn.
Tóm lại, do yêu cầu thời đại, Phật giáo Lý – Trần nói chung, đặc biệt là Phật giáo Thiền Trúc Lâm nói riêng đã Đại Việt hóa, dân tộc hoá tư tưởng Thiền đạo và sáng tạo thêm một số tư tưởng cụ thể, sắc bén, thích hợp với hoàn cảnh Đại Việt lúc bấy giờ, làm nên bản sắc rất riêng của dân tộc, phần nào đáp ứng được yêu cầu của thời đại lịch sử xã hội. Ngoài tôn chỉ chung của Thiền là phá chấp, đốn ngộ, tâm truyền, thì Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần còn có những nét riêng như đưa Phật Thiền vào cuộc sống, phục vụ đất nước và nhân dân, tu dưỡng nhân cách con người. Thiền dung hợp với những yếu tố tích cực của Nho, của Lão – Trang để giúp con người phát triển toàn diện, phù hợp với sự phát triển của đất nước. Phật giáo Thiền tông Lý – Trần còn kết hợp với Tịnh độ tông và Mật tông cùng tín ngưỡng dân gian để phù hợp với thực tiễn và mang tính đại chúng. Riêng quan điểm tư tưởng của Thiền Trúc Lâm – một Phật giáo nhất tông đã tác động nhiều đến xã hội, giúp con người ta rèn luyện luân lý đạo đức hơn là tôn giáo, góp phần duy trì bình ổn xã hội Đại Việt thời đó, để tạo nên chiến công oanh liệt với ba lần đại thắng Nguyên Mông xâm lược. Đồng thời, Phật giáo hồi này đã đào tạo nên những thiền sư tâm hướng về Phật mà lòng vẫn gắn bó với đời, với cuộc sống trần thế. Đó chính là “Cư trần lạc đạo”. Có thể nói đây là một Phật giáo đầy sức sống mà tinh thần chung được Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã đúc kết trong bài kệ ở cuối bài phú Cư trần lạc đạo:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tác xan hề, khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền.
(Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên,
Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền.
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm,
Vô tâm trước cảnh, hỏi chi Thiền.13)
2. Đến hệ thống Thiền viện Trúc Lâm hiện nay
Trong suy nghĩ và trong tâm lý của người đời xưa nay cũng như trong một số tư liệu thì khi nhắc đến Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thường chỉ nhắc đến ba vị Tổ đầu tiên của Thiền phái. Việc này ít nhiều dẫn đến suy nghĩ Thiền phái sau thời Huyền Quang là đứt đoạn. Thực tế có khác. Đúng là Phật giáo Đại Việt sau thời Huyền Quang quản lý thì bắt đầu đi vào giai đoạn thoái trào. Lúc này Nho giáo đang lên, đóng vai trò chủ yếu trên chính trường, phong trào bài Phật diễn ra. Bấy giờ, Phật giáo không còn đảm nhiệm cố vấn cho triều đình như trước, mà lui về thiền viện, tự viện, chăm lo phần tâm linh cho quần chúng nhân dân. Thiền phái Trúc Lâm cũng chịu sự ảnh hưởng chung đó. Tuy vậy, Thiền phái vẫn âm thầm tiếp tục truyền thừa mạng mạch tại các thiền viện, tự viện, để đến thế kỷ XVII, XVIII, Thiền phái Trúc Lâm được phục hưng bởi Thiền sư Chân Nguyên và các đệ tử của Ngài kế tục. Đến cuối thế kỷ XVIII, một lần nữa tinh hoa tư tưởng cùng tinh thần nhập thế của Thiền phái được Hải Lượng thiền sư Ngô Thì Nhậm xiển dương trong luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.
Rồi đến nửa cuối thế kỷ XX, tinh thần nhập thế, hộ quốc an dân, lợi lạc quần sinh của Thiền phái Trúc Lâm lại một lần nữa được phục hưng và xiển dương bởi Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ.
Hòa thượng Thanh Từ sinh năm 1924, quê ở huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long trong một gia đình mộ Phật. Ngài vốn không phải kế thừa mạng mạch từ tông phong pháp phái của Thiền phái Trúc Lâm. Ngài là đệ tử truyền thừa thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, là đệ tử chân truyền của ngài Hòa thượng Thích Thiện Hoa, nguyên Đệ nhất Phó Viện trưởng (1964-1966) rồi Viện trưởng Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong mấy nhiệm kỳ từ 1966 đến khi viên tịch vào năm 1973. Ngài xuất gia từ thời thanh niên, được Hòa thượng Bổn sư cho theo học các lớp Phật học từ sơ đẳng, trung đẳng, đến cao đẳng tại các Phật học đường như Phật học đường Phật Quang, Phật học đường Nam Việt, v.v… Từ năm 1960 đến năm 1966, Hòa thượng Thanh Từ từng giữ một số trọng trách trong Ban Hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo như Phó Vụ trưởng rồi Vụ trưởng Phật học vụ; Quản viện kiêm giáo sư Phật học viện Huệ Nghiêm; Giảng sư các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm; Giảng sư Viện Đại học Vạn Hạnh. Tháng 11 năm 2017, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đã suy tôn Ngài ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trong ba năm từ 1966 đến 1968, Ngài xin phép Hòa thượng Bổn sư được nghỉ công tác Phật sự của Giáo hội để nhập thất ẩn tu, dựng Pháp Lạc thất, tại núi Tương Kỳ thuộc Vũng Tàu. Tháng Chạp năm Mậu Thân (1968) ngài ngộ đạo Thiền, từ đó hành đạo, hoằng pháp độ sinh, xiển dương mạng mạch Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm. Ngôi thiền viện đầu tiên ngài thành lập là Thiền viện Chơn Không ở núi Tương Kỳ, Vũng Tàu (1970). Sau đó, ngài tiếp tục khai sơn xây dựng nhiều thiền viện khác trong tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu như Thiền viện Linh Quang, Thiền viện Bát Nhã (1974), rồi Thiền viện Thường Chiếu dành cho Tăng (1974), Thiền viện Viên Chiếu dành cho Ni (1975) ở Long Thành, Đồng Nai. Một số thiền viện khác như: Huệ Chiếu (1979), Linh Chiếu (1980), Phổ Chiếu (1980), Tịch Chiếu (1987)…, Thiền Viện Trúc Lâm Phụng Hoàng trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt (1993), trùng tu Chùa Lân (chùa Long Động) thành Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (2002), Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên (2005), và còn nhiều thiền viện thuộc hệ thống Thiền Trúc Lâm ở khắp mọi miền đất nước. Tư liệu cho biết, tính đến năm 2013, Hòa thượng đã cho xây dựng trong nước trên 60 thiền viện, tự viện và trên 100 đạo tràng học Phật tu Thiền theo tôn chỉ của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam; Còn ở nước ngoài, ngài đã chỉ đạo xây dựng những thiền viện, tự viện như ở Hoa Kỳ có 10 ngôi, ở Canada có 02 thiền viện, ở Pháp có 01 tự viện, ở Úc có 05 tự viện. Hòa thượng từng chu du giảng thuyết về Thiền tại các nước: Campuchia (1950), Ấn Độ, Sri Lanka, Nhật Bản (1965), Trung Quốc (1993), Pháp (1994, 2002), Thụy Sĩ (1994), Canada (1994, 2002), Indonesia (1996), Hoa Kỳ (1994, 2000, 2001, 2002), Úc Châu (1996, 2002). Đệ tử quy y của ngài có thể kể đến gần hai trăm ngàn người.
Khoảng mười năm nay, do tuổi cao sức yếu, công việc xây dựng hệ thống Thiền viện Trúc Lâm, ngài giao cho đệ tử là Hòa thượng Nhật Quang (Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai), Trụ trì Thiền viện Thường Chiếu đảm nhiệm tổ chức, chỉ đạo.
Về trước tác, trước thuật, giảng luận, Hòa thượng đã cho xuất bản đến mấy trăm đầu sách về Kinh và Luận. Gần đây, các đệ tử của Hòa thượng tập hợp lại thành Tổng tập và cho tái bản thành Thích Thanh Từ toàn tập với dung lượng 43 tập, mấy chục ngàn trang in khổ lớn 20×28, bìa cứng, mà năm ngoái tôi có may mắn là được Thiền viện Thường Chiếu gởi tặng trọn bộ đến 08 thùng sách.
Riêng về hệ thống Thiền viện Trúc Lâm trên khắp đất nước ta được Hòa thượng chỉ đạo xây dựng, có vài ngôi được trùng tu có thể thấy tất cả đều quy mô hoành tráng, tọa lạc nơi địa bàn yên tĩnh, hữu tình, với lối kiến trúc độc đáo, tương đối nhất quán và gần với phong cách kiến trúc đời Trần với những mái và đầu đao cong vút vươn lên trong không gian trầm mặc.
Tại các thiền viện, nhờ được xây dựng trong một khuôn viên rất rộng, từ dăm ba hecta đến vài chục hoặc trăm hecta, nên tăng ni có đủ điều kiện để canh tác, trồng rau màu, ngũ cốc, tạo được kinh tế tự cung tự cấp. Về Thanh quy thiền viện, học tập Thiền sư Bách Trượng ở Trung Quốc khi xưa, Hòa thượng chủ trương “Một ngày không làm, một ngày không ăn” (nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực), nên tất cả tăng ni đang theo học, tu tập tại các thiền viện thuộc hệ thống Trúc Lâm ngoài thời khóa biểu hành trì tu tập, thì tất cả đều phải lao động, mỗi người một việc, với sự phân công hợp lý của thầy Tri sự ở mỗi thiền viện.
Các thiền viện thuộc hệ thống Trúc Lâm còn chủ trương thường xuyên công tác an sinh xã hội, cứu tế, giúp đỡ người khó khăn, cơ nhỡ. Nếu cần các bạn có thể vào trang web các thiền viện thuộc hệ thống Trúc Lâm thì sẽ đọc được những tin tức và sẽ thấy những con số cụ thể về công tác này.
Như trên vừa nêu, tất cả thiền viện thuộc hệ thống Trúc Lâm đều được xây dựng nơi thanh tĩnh, thoáng rộng, kiến trúc quy mô hoành tráng, mỹ thuật nên không chỉ là nơi tu học cho tăng ni mà còn là nơi chiêm bái hành hương của tín đồ Phật tử, và là nơi tham quan cho khách du lịch gần xa. Mỗi thiền viện thuộc hệ thống Trúc Lâm hiện nay đều là địa điểm văn hóa du lịch tâm linh nổi tiếng, thu hút rất nhiều khách tham quan trong và ngoài nước. Có thể nêu ra đây vài chục thiền viện Trúc Lâm nổi tiếng, thu hút du khách, được khách tham quan đánh giá cao như: Thiền viện Chơn Không (Vũng Tàu), Thiền viện Thường Chiếu (Long Thành, Đồng Nai), Thiền viện Viên Chiếu (Long Thành, Đồng Nai), Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (chùa Lân, Long Động Tự ở Quảng Ninh), Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã (Thừa Thiên – Huế), Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm (Vân Đồn, Quảng Ninh), Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (Yên Dũng, Bắc Giang), Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên (Tam Đảo, Vĩnh Phúc), Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác (Tân Phước, Tiền Giang), Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam (Phong Điền, Cần Thơ), Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, Thiền viện Trúc Lâm Sùng Phúc (Long Biên, Hà Nội), Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng Thanh Hóa, Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức (Sông Lô, Vĩnh Phúc), Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Quang (Thủ Đức, TPHCM), Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp (TP. Tuyên Quang), Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc (Phú Quốc, Kiên Giang), Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh (thị xã Duyên Hải, Trà Vinh), Thiền viện Trúc Lâm Thiên Trường (TP. Nam Định), Thiền viện Trúc Lâm Chân Nguyên (còn gọi là chùa Khỉ, thị trấn Phước Hải, Bà Rịa – Vũng Tàu), Thiền viện Trúc Lâm Viên Ngộ (Phan Rang)…
Lời kết
Tóm lại, kế tục tinh thần nhập thế, hộ quốc an dân, lợi lạc quần sinh của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, hệ thống Thiền viện Trúc Lâm hiện nay do Hòa thượng Thanh Từ phục dựng đã kế thừa được tông phong yếu chỉ của Trúc Lâm tam Tổ khi xưa, đồng thời có cải biên cho phù hợp với thời đại mới. Đây là một Phật giáo Thiền tông nhập thế tích cực, ích nước lợi dân, mà theo tôi nghĩ, nếu tất cả những con dân Việt, ai ai cũng thực hành Chánh đạo, thực hành Thập thiện theo chủ trương của Thiền phái thì xã hội này sẽ an bình, hạnh phúc, tốt đẹp biết bao. Đây là ý nghĩa thiết thực và tích cực nhất của yếu chỉ Thiền phái Trúc Lâm thời hiện đại.
Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ NGUYỄN CÔNG LÝ*
(*Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. HCM, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn học Phật giáo –
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam)
Nguồn: Viện nghiên cứu phật học phối hợp Trường Đại học Mỹ thuật tổ chức
Hội thảo Khoa học: “Phật tích trong tiến trình lịch sử” tại Chùa Phật Tích, 10/05/2011
1. Nguyễn Công Lý: Mấy nét đặc trưng về thời đại Lý – Trần (Tạp chí Nghiên cứu Phật học, 1997). Sau đó, chúng tôi đưa vào thành một tiểu mục trong công trình Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: Diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG TP.NCM, 2002.
2. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG TP.HCM, 2002, tái bản lần thứ 5, 2016.
3. Nguyễn Duy Hinh (1977), Yên Tử – Vua Trần – Trúc Lâm, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2, tr.10-21;
Nhiều tác giả – Viện Sử học (chủ biên) (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, NXB KHXH, Hà Nội.
4. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 505.
5. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 505.
6. Tuệ Trung Thượng sĩ, Thế thái hư huyễn, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 250.
7. Trần Thái Tông, Thiền tông chỉ nam tự, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 28-29.
8. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 505.
9. Tuệ Trung Thượng sĩ, Tâm vương, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 237.
10. Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988.
11. Trần Nhân Tông, Tịch diệt, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988.
12. Trần Nhân Tông, Thượng sĩ hành trạng, trong Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1988, trang 544.
13. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 510.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý – Trần, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: Diện mạo và đặc điểm, NXB ĐHQG TP.HCM, tái bản lần thứ 5, 2016. Nguyễn Công Lý (2018), Văn học Việt Nam thời Lý – Trần, NXB ĐHQG TP.HCM. Nguyễn Duy Hinh (1977), Yên Tử – Vua Trần – Trúc Lâm, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2, trang 10 – 21. Nguyễn Lang (1944), Việt Nam Phật giáo sử luận, 3 tập, tập 1, NXB Văn học, tái bản, Hà Nội. Nhiều tác giả – Viện Sử học (chủ biên) (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, NXB KHXH, Hà Nội. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN.