Mọi tư tưởng, triết lý, quan điểm hay học thuyết của một đấng giáo chủ nào, sau khi trải qua những giai đoạn truyền thừa, đều có một vài sự thay đổi để thích ứng với các giai đoạn đó. Vì thế, cách chuyển tải nội dung tư tưởng hay cách lý giải về chúng đương nhiên sẽ có những sự thay đổi, phát triển, thậm chí có những điểm khác biệt với hình thức ban đầu khi chúng được đề xướng.

Nội dung lời dạy của Đức Phật về giáo lý, về giới luật trải qua những giai đoạn truyền thừa cũng không nằm ngoài quy luật ấy, trải qua thời gian dài ngắn, trải qua từng giai đoạn thăng trầm của lịch sử, cùng với những kiến giải khác nhau hay do hoàn cảnhcăn cơ khác nhau mà mỗi hành giả có một cách tiếp nhận và thực hành giáo lý của Đức Phật khác nhau. Từ đó, xảy ra sự bất đồng quan điểm trong đoàn thể Tăng-già. Cho nên, phát sinh hiện tượng phân chia bộ phái trong Phật giáo thành những truyền thống Phật giáo khác nhau. một bên theo truyền thống bảo thủ là Thượng Tọa bộ (Theravada) và một bên thay đổi để khế hợp với thời đại nên tách ra lập thành phái Đại Chúng bộ (Mahàsanghika).

Tựu trung, thời gian thực sự xảy ra việc phân chia bộ phái được xác định là khoảng hơn 100 năm kể từ sau khi Đức Phật nhập diệt, có hai nguyên nhân chính:

1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai

Khoảng hơn 100 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Da-xá (Yasa) là người ở phía Tây, đi du hóa đến thành Tỳ-xá-ly (Vesali) ở phía Đông. Thấy các Tỳ kheo ở phía Đông nhận tiền của bạch y, Da-xá không đồng tình, bèn nói việc nhận tiền này là trái với giới luật Đức Phật dạy. Chúng Tỳ-kheo tộc Bạt-kỳ ở thành Tỳ-xaly buộc tội ngài Da-xá hủy báng Tăng-già nên yêu cầu Tôn giả Da-xá sám hối trước Tăng chúngTrưởng lão Da-xá không chấp nhận điều đó là sai nên lánh về phía Tây, đi đến các địa phương như Mathùrà, Avanti… để cầu thỉnh những vị Trưởng lão nghiêm trì giới luật và tu khổ hạnh để huy động tập họp đại hộiĐại hội lần này gồm có 700 vị Tỳ-kheo, được tổ chức tại thành Tỳ xá-ly. Vì số lượng người tham dự đại hội quá đông, cho nên, trong 700 người tham dự đại hội thuộc cả hai phía Đông, Tây, mỗi bên cử ra bốn vị được Tăng chúng kính trọng. Tám vị này đại diện cho 700 người tham dự đại hội có trách nhiệm tập hợp, xem xét các ý kiến để đưa ra kết luận cuối cùng. Đây là đại hội thứ hai của Tăng đoàn Phật giáo sau khi Đức Phật nhập diệtđại hội có tên Thất bách kết tập.

Nội dung kỳ đại hội này chủ yếu đưa ra mười việc mà các Tỳ-kheo tộc Bạt-kỳ (Vajji) hành trì để xem xét là đúng hay sai so với giới luật Phật chế.

Mười việc đó là:

1. Được phép để dành muối trong đồ chứa làm bằng sừng.
2. Được phép ăn trong vòng hai chỉ tay sau thời gian quy định.
3. Được phép khất thực ở thôn khác.
4. Được phép cử hành Bố-tát tại hai nơi khác nhau cùng một khu vực.
5. Nếu dự đoán được sự đồng ý của chư vị Tỳ-kheo, số người có mặt tuy không đủ số lượng như quy định, vẫn được phép thực hiện phép Yết-ma.
6. Được phép tùy thuận theo thói quen thường ngày của Hòa thượng A-xà-lê.
7. Được phép ăn uống sữa chưa qua quấy trộn.
8. Được phép uống nước dừa chưa lên men.
9. Được phép may tọa cụ không có đường viền.
10. Được phép tiếp nhận tiền bạc1 .

Đại hội lần này quyết định mười việc trên là phi pháp, không đúng lời Phật dạy. Thế nên, sau kỳ đại hội có nhiều vị Tỳ-kheo ở phía Đông không đồng tình với quyết định này; các ngài tập hợp khoảng 1.000 vị Tỳ-kheo, mở đại hội riêng, gọi là Đại kết tập hay Đại chúng kết tập. Vì nguyên nhân này giáo đoàn Phật giáo phân thành hai bộ, Đại Chúng bộ (Mahàsanghika) có tư tưởng cấp tiến; còn những vị phía Tây có tư tưởng bảo thủ thành lập Thượng Tọa bộ (Theravàda).

Trong thời Đức Phật còn tại thế, cuộc sống của chúng Tỳ-kheo chủ yếu là du hóa khắp nơi để truyền đạo, ngày đi khất thực để nuôi sống sắc thân, tối đến ngủ gốc cây… thì không cần chứa muối làm gì; lại nữa, với cuộc sống như vậy thì không cần phải nhận tiền bạc. Nhưng vào thời điểm sau khi Đức Phật nhập diệt trên 100 năm, cuộc sống của Tăng chúng đã khác, các ngài chung sống trong các tinh xánếu không có tiền thì sẽ không duy trì được đời sống tập thể ấy…. Cũng như hiện tạinếu không giữ tiền thì không có để chi tiêu trong sinh hoạt hằng ngày; vì rõ ràng việc đi lại, học hành… đều cần phải có tiền. Thế nên, những giới nào không còn phù hợp với cuộc sống hiện tại và không giúp ích gì đến sự tu tập của người tu thì có thể thay đổi. Giới luật Phật chế để cho những ai hành trì sẽ được thanh tịnhgiới không phải là xiềng xích kìm hãm con đường tu tập của hành giảLịch sử cho thấy những bất đồng trong quan điểm giới luật đã nhen nhúm từ thời Đức Phật còn tại thếcho đến thời điểm sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm, đã thể hiện rõ nét bằng kỳ đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai. Theo Nam truyền, đây là nguyên nhân dẫn đến sự phân phái Phật giáo.

2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng

Theo Phật giáo Bắc truyền, nguyên nhân dẫn đến sự phân phái Phật giáo là do năm việc mà ngài Đại Thiên (Mahàdeva) đề xướng. Có rất nhiều thuyết khác nhau nói về Đại Thiên và năm việc của ông. Đơn cử, luận Đại Tỳ-bà-sa nói Đại Thiên là một người xấu xa, phạm ba trọng tội: giết cha, giết mẹ và giết A-la-hán. Nhưng cũng trong bộ luận này nói Đại Thiên là người thông minh, chẳng bao lâu sau khi xuất gia đã thông Tam tạng Thánh điển, chứng A-la-hán, có tài biện luận vô ngại, được vua mời vào cung thuyết pháp. Một hôm, đến kỳ Bố-tát, Đại Thiên đứng ra giữa chúng nói bài kệ: Dư sở dụ, vô triDo dự, tha linh nhập, Đạo n hân thanh cố khởi, Thị danh chân Phật giáo2 .

Qua bài kệ này, ngài Đại Thiên đưa ra năm việc cho rằng quả vị A-la-hán không bằng quả vị Phật.

1. Dư sở dụ

Theo Đại Thiên thì thân vật lý phải chịu sự chi phối của vật lý, không thể thần thánh hóa rằng ở người chứng quả A-la-hán thì còn không chịu sự chi phối của vật lý nữa. Đức Phật là bậc Toàn giác mà Ngài còn bị nhức đầu khi dòng Sakya bị sát hại, Ngài cũng cảm xúc khi đứng ở thành Tỳ-xá-ly nhìn về Ca-tỳ-la-vệ mà rơi ba giọt nước mắt; Đức Phật cũng phải ăn cơm, uống nước, nóng thì đổ mồ hôi, lạnh thì run rẩy… Phía Thượng Tọa bộ cho rằng người đã chứng quả vị A-la-hán thì thân thể không còn sự chi phối của vật lý, từ đó phát sanh sự tranh cãi.

2. Vô tri

Đại Thiên quan niệm Vô tri có hai trường hợp:

Thứ nhấtnhiễm ô vô tri: bắt nguồn từ vô minh thì A-la-hán đã đoạn trừ. A-la-hán chỉ biết những việc liên quan đến giải thoát. Bậc chứng A-la-hán tuyên bố: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”3

Thứ haibất nhiễm ô vô tri, tức vô tri do tập khí thì A-la-hán chưa đoạn trừ. Phía Thượng Tọa bộ cho rằng, A-la-hán thì không còn vô tri, vì theo họ nghĩ vô tri chính là vô minh. Nhưng, quan điểm của Đại Thiên cho rằng bất nhiễm ô vô tri là do tập khí nhiều đời nên A-la hán vẫn còn. Đức Phật thì khác, Ngài là bậc nhất thiết trí nên biết hết tất cả. Đức Phật tuyên bố: “Ta là Bậc nhất thiết trí, Bậc nhất thiết kiến, là Bậc tri đạo, Bậc khai đạo, Bậc thuyết đạo”4 .

3. Do dự hay còn gọi là Nghi, theo Đại Thiên thì nghi có hai trường hợp

Thứ nhất: xứ phi xứ nghi, là những điều không thuộc suy nghĩ của A-la-hán như khi đi đến một nơi xa lạ thì A-la-hán nghi ngờ không biết đường này có đúng không, vì nghi ngờ nên phải nhờ người chỉ dùng.

Thứ hai: tùy miên tánh nghi, nghi này thì bậc A-la hán đã đoạn. A-la-hán không còn hoài nghi về bổn phận và trách nhiệm của mình. Tuy nhiênThượng Tọa bộ cho rằng, đã chứng A-la-hán thì không còn do dự, từ đó xảy ra mâu thuẫn.

4. Tha linh nhập

Đại Thiên cho rằng, có người đã chứng A-la-hán nhưng không biết mình đã chứng phải nhờ người khác chỉ mới biết mình chứng. Thượng Tọa bộ cho rằng, Đại Thiên là người ngu tối nên mới nói như vậy, từ đó mới xảy ra tranh cãi.

5. Đạo nhân thanh cố khởi

Đại Thiên giải thích một cách rõ ràng, chặt chẽ, rành mạch bốn việc trên, nhưng Thượng Tọa bộ không chấp nhận bèn hỏi Đại Thiêndựa vào cơ sở nào để nói bốn việc đó. Đại Thiên trả lời dựa vào kinh A-hàm truyền miệng mà trình bày. Thời đó, lời Phật dạy được ghi nhớ trong đầu rồi truyền miệng nên nhờ vào âm thanh này mà nhiều người chứng quả. Nhưng, trí nhớ con người có giới hạn nên phải ghi lại để khỏi bị sai lệch. Từ đó, những lời dạy của Đức Phật mới được ghi lại bằng chữ viết.

Qua cách lý giải của Đại Thiên, điều này chứng tỏ quả vị A-la-hán chưa bằng quả vị Phật, chỉ có quả vị Phật mới toàn hảo. Từ những bất đồng trong tư tưởng giáo nghĩaquả vị tu chứng nên dẫn đến mâu thuẫn phát sanh. Theo Phật giáo Bắc truyền, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự phân phái trong Phật giáo.

Như Dị Bộ tông nhận định: “Bấy giờ, Đại Tăng của Phật giáo bắt đầu phân hóa, sự thể là do bốn chúng bình nghị khác nhau về năm sự của Đại Thiên đưa ra mà chia thành hai bộ, là Đại Chúng bộ và Thượng Tọa bộ”5 .

Qua phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, nguyên nhân dẫn đến sự phân phái Phật giáo không phải bắt đầu khi Đại Thiên xuất hiện, mầm mống của sự phân phái Phật giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế, khi Đề bà-đạt-đa xúi giục 500 Tỳ-kheo rời khỏi Giáo đoàn của Đức Phật để thành lập giáo đoàn riêng. Chính những mầm mống này âm ỉ kéo dài và được thể hiện rõ nét ở kỳ Đại hội Kiết tập Kinh điển lần thứ hai. Theo phái Thượng Tọa bộ, do bất đồng quan điểm về giới luật, còn theo Đại Chúng bộ thì do bất đồng tư tưởng giáo lý được thể hiện qua sự tranh cãi năm việc của Đại Thiên đưa ra.

Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự phân phái của Phật giáo? Nếu theo quan điểm của Thượng Tọa bộ thì nguyên nhân phân phái là do bất đồng về giới luật. Thế thì tại sao sáu bộ luật còn lại: 1. Mahàsanghika-vinaya (Luật của Đại Chúng bộ); 2. Mùlasarvastiràda-vinaya (Luật của Căn bản Nhất thiết hữu bộ); 3. Sarvastiràda-vinaya (Luật của Nhất thiết hữu bộ); 4. Mahìsaraka-vinaya (Bát thập tụng luật); 5. Theravada-vinaya (Luật của Thượng Tọa bộ); và 6. Dharmaguptaka-vinaya (Luật của Pháp Tạng bộ) nội dung các giới trọng đều giống nhau, chỉ khác về số lượng giới pháp chúng học (là những giới liên quan đến việc ăn mặc, đi lại…).

Như thế, mười điều được đưa ra bàn luận ở Đại hội kiết tập kinh điển lần thứ hai có nên gọi là phi pháp hay không? Ví như, thời Đức Phật, muối là quý, viền tọa cụ là quý mà Đức Phật luôn dạy hàng đệ tử sống thiểu dụctri túc nên Ngài cấm không cho chứa muối trong sừng, không cho may tọa cụ quá khổ quy định, là hợp với thời điểm đó. Nhưng đến thời bấy giờ, cuộc sống Tăng đoàn chủ yếu sống ở tự viện không còn đi du hóakhất thực, ngủ dưới gốc cây như thời đó. Cho nên, cần phải chứa muối để sử dụng và muối không phải là quý đối với thời đại này nữa nên giới đó không còn phù hợpThế cho nêngiới luật của Phật không khác mà chỉ khác nhau ở tư tưởng, do sự tiếp cận, hiểu biết và thực hành lời Phật dạy khác nhau được thể hiện rõ qua năm việc Đại Thiên đề xướng là nguyên nhân dẫn đến sự phân phái Phật giáo.

Tóm lạinguyên nhân chính và rõ ràng nhất dẫn đến sự phân phái trong Phật giáo là do bất đồng về tư tưởng giáo lýthể hiện qua năm việc mà Đại Thiên đề xướngGiáo lý của Đức Phật chỉ có một nhưng hàng đệ tử hiểu lời Phật dạy khác nhau, phương thức tu tập khác nhau, cách tiếp nhận lời Phật dạy khác nhau, quan điểm về quả vị tu chứng khác nhau nên xẩy ra sự bất đồng trong đoàn thể Tăng-già, từ đó dẫn đến sự phân phái trong Phật giáo.

Thích Nữ Lệ Nhiên | Văn Hóa Phật Giáo Số 328 ngày 1-9-2019 


Chú thích:

1. Thích Hạnh Bình, Phương Anh dịch, Khái luận Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, TP.HCM, Nxb Phương Đông, 200, tr.53-54.
2. Hạnh Bình, Nghiên cứu về năm việc của Đại Thiên. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2006, tr.19-20.
3. Thích Minh Châu dịch, Tăng chi bộ kinh; tập 2, chương 5 pháp, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2005, tr.419.
4. Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Diệu pháp Liên hoa, phẩm Dược thảo dụ thứ 5, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.189.
5. Trí Quang dịch, Dị Tông luận, Nxb TP.HCM, 1995, tr.61.
Thư mục tham khảo:
1. Hạnh Bình, Nghiên cứu về năm việc của Đại Thiên. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2006.
2. Thích Nhật Chiếu, Luật học Đại cương, Nxb Tôn Giáo, 2007.
3. Trí Quang dịch, Dị Tông luận, Nxb TP.HCM, 1995.
4. Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Diệu pháp Liên hoa, phẩm Dược thảo dụ thứ 5, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2007.
5. Thích Minh Châu dịch, Tăng chi bộ kinh; tập 2, chương 5 pháp, Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2005.
6. Thích Hạnh Bình, Phương Anh dịch, Khái luận Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, TP HCM, Nxb Phương Đông, 2013.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Ảnh hưởng của Phật giáo thời Lý đến các lĩnh vực giáo dục, văn học và phong tục tập quán của người Việt
Lịch sử, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Phật giáo thời Lý có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực giáo dục, văn học và phong tục tập quán của người Việt góp phần tạo nên bản...

Chính quyền Chúa Nguyễn với các ngôi chùa Sắc tứ ở Đàng Trong (giai đoạn 1558-1777)
Lịch sử, Nghiên cứu

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Các chùa sắc tứ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của chính quyền chúa Nguyễn, mặt khác, thông qua các hoạt động và thực hành nghi lễ Phật...

Đi tìm cơ sở truyền thừa của Ni giới tại Việt Nam qua thư tịch Hán cổ
Lịch sử, Nghiên cứu

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn...

Hai bảo vật quốc gia ở chùa Sùng Khánh và chùa Bình Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Vị Xuyên – Hà Giang không chỉ nổi tiếng về phong cảnh thiên nhiên phong phú, nhiều phong tục tập quán, văn hóa truyền thống và những di tích lịch sử mang...

Chủ nghĩa Platon và giáo lý đạo Phật
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Thời đó, khoa học chưa phát triển, máy móc còn thô sơ nhưng họ hướng tới sự tìm tòi thế giới, bản tính con người một cách sâu sắc. Phật...

Chấn hưng Phật giáo – Con đường truyền bá tư tưởng yêu nước của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Lịch sử, Nghiên cứu

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Trong hành trình phương Nam, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp quan trọng cho phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam...

Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian qua trường hợp Thiền sư Từ Đạo Hạnh
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian ở vùng đồng bằng sông Hồng qua trường hợp thiền Sự Từ Đạo Hạnh đã tạo nên hỗn hợp Phật –...

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình...

Bước đầu khảo cứu mộc bản kinh sách Phật giáo Đàng Trong thời chúa Nguyễn
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Thông qua hoạt động tổ chức khắc in kinh sách, chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền chúa Nguyễn với các vị cao tăng, bên...

Quá trình phát triển giáo dục Phật giáo miền Nam 1954-1981
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Giáo dục Phật giáo là nền tảng cho mọi hoạt động hoằng pháp của tăng ni, tri thức giúp họ gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong sự...

Bồ-tát Quán Thế Âm Trong Văn Hóa Tín Ngưỡng Của Người Việt
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người đều có hình ảnh về vị Bồ-tát luôn đầy lòng bi mẫn này. Ngài...

Thuyết tái sinh góp phần xây dựng giá trị đạo đức xã hội
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Theo nhân quả nghiệp báo thì một hành động thiện sẽ dẫn đến các cảnh giới tái sinh tốt đẹp, do đó, tinh thần bất bạo động được xây dựng...

Hòa thượng Tâm An phụng sự Đạo pháp và Dân tộc
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Từ những buổi đầu Phật giáo suy vi, dân tộc chịu ách thống trị của thực dân Pháp, ngài tham gia cuộc chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ. Khi có...

Ảnh hưởng của đạo Phật đến các giá trị văn hóa xã hội
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Sự nhấn mạnh vào nhận thức bản thân, từ bi tâm và công lý xã hội đã biến đạo Phật thành một động lực kiên cường cho sự chuyển hoá...

Những đóng góp của triều đại nhà Trần đối với Phật giáo Việt Nam về văn hoá, tư tưởng
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Triều đại nhà Trần không chỉ là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong công cuộc khôi phục và phát triển đất nước, mà còn là thời kỳ đánh...

Các thiền sư thời Lê sơ và sự nỗ lực chấn hưng truyền thống văn hóa dân tộc Đại Việt
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mục lục bài viết1. Sự bất đồng về giới luật được thể hiện ở đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai2. Bất đồng quan điểm tư tưởng giáo lý về năm việc Đại Thiên đề xướng Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, đánh bạt âm mưu xâm lược, nô dịch văn hóa...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.