PHẨM PHƯƠNG TIỆN
(Đây là phẩm cốt tủy của kinh. Bảy phẩm kế tiếp (3 đến 9) là các phẩm bàn luận mở rộng về nội dung của phẩm này).

Ý chính

1. Mọi cách thức của cuộc sống đều là phương tiện chứ không phải mục đích, nên đừng có khoe khoang để rồi chết chìm, chết nổi, chết ngộp trên chính phương tiện của mình, mà hãy tận dụng nó để đạt được mục đích.

2. Mục đích của cuộc đời là thân khỏe tâm an, thấu hiểu và tử tế, và phải ở ngay trong cuộc đời này, chứ không phải ở phương trời xa xăm nào đó. Mọi người đều có khả năng đạt được mục đích đó. Việc còn lại là chúng ta có thực hiện hay không mà thôi.

3. Cách thức thực hiện (tức phương tiện), nếu nhìn một cách tổng quát là như nhau đối với mọi người; nếu nhìn ở khía cạnh đặc thù, thì cách thức thực hiện đó là độc nhất với chính bản thân mình, người khác không thể thực hiện giống mình, và mình cũng không thể thực hiện giống người khác.

Giải thích mở rộng

Đại ý chính của phẩm này được thể hiện ngay trong tiêu đề, đó là mọi cách thức rèn luyện tâm linh đều chỉ là “phương tiện” (upāya) để đạt đến cùng một mục đích – giác ngộ (thấu rõ) và giải thoát (hết khổ đau). Và tất cả chúng ta đều sở hữu khả năng đó, khả năng thấu rõ vấn đề và an lạc chấm dứt đau khổ ngay trong cuộc sống hiện tại. Khả năng này, Kinh Niết-bàn (phẩm thứ tám) tuyên bố là “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” (tất cả mọi loài đều có tố chất đưa đến giác ngộ và giải thoát), còn trong Pali Nikāya nói rằng tâm này là sáng chói, nhưng chẳng qua là bị cấu uế bên ngoài che khuất. (Tăng chi 1, 51).

Giác ngộ là nhận ra được và hiểu biết tường tận lộ trình, sau đó mình tiếp tục bước đi trên lộ trình đó để thoát khỏi những trói buộc khổ đau đạt được giải thoát. Dường như tất cả chúng ta đều đã giác ngộ nhưng không đủ can đảm để bước đi cho hết lộ trình, hoặc có nhiều thứ hấp dẫn lôi cuốn chúng ta đi chệch lộ trình mà thôi. Lộ trình đó là lộ trình độc nhất (ekāyana), cho dù có niềm tin hay không có niềm tin, cho dù theo tôn giáo nào đi chăng nữa, thì lộ trình trở về nội tâm để thấu rõ nguồn cội đưa đến giải thoát vẫn là lộ trình duy nhất mà các bậc thánh nhân trên trái đất này từ ngàn xưa cho đến ngày nay đã đi, chưa có lộ trình thứ hai nào khác hơn. Lộ trình này được xem là độc nhất vì không ai thực hành như nhau cả. Lộ trình này trong Pali Nikāya lấy “tứ niệm xứ” (bốn nền tảng chánh niệm) làm cốt yếu (Trung bộ 10; Trường bộ 22; v.v.), trong Kinh Pháp hoa gọi đó là “Phật thừa” (Buddha-yāna: lộ trình đạt đến tri kiến Phật) ở ngay Phẩm Phương tiện này.

Tuy nhiên, vấn đề “phương tiện” cần phải được rạch ròi, nếu không chúng ta lại rơi vào phương thức “tùy tiện” phi phương tiện mà cho đó là “phương tiện.” Đức Phật đã từng quở trách và ngăn cản đệ tử của mình thực hiện những điều “phi phương tiện” đó. Chuyện Tôn giả Tân-đầu-lô Phả-la-đọa (Piṇḍola Bhāradvāja) thi triển thần thông bay lên cao để lấy bình bát bằng gỗ quý, mặc dù điều này thu hút rất đông người đi theo tôn giả để đến tu viện, nhưng đức Phật đã quở trách tôn giả. Qua việc này ngài đã cấm các đệ tự của mình sử dụng những pháp thần thông siêu nhiên đó. (Luật Tiểu phẩm V, 8, 1).

Vậy, điều gì là “phương tiện” và điều gì là tùy tiện “phi phương tiện?” Kinh Pháp hoa nói một cách rất ngắn gọn và rõ ràng, điều gì khiến cho chúng ta “mở ra tâm trí, thấy rõ cội nguồn, hòa mình trong đó, và ung dung tự tại” (khai thị ngộ nhập Phật tri kiến (Phẩm Phương tiện, mục 17, 18) đều là phương tiện. Trái lại, đều là “phi phương tiện” nhưng gắn mác “phương tiện.” Để dễ hiểu hơn, “phương tiện” là những thứ làm giảm, khắc chế và tiêu diệt tham, sân, si; ngược lại thì đều là “phi phương tiện.” Nói cách khác, phương tiện là cách thức làm cho mọi thứ trỗi dậy từ tâm thức xuôi về, nghiêng về, chảy về, hòa mình vào dòng chảy chân lý bao la, và thuần một vị, đó là Pháp vị, giống như mọi dòng chảy nghiêng về, xuôi về, chảy về, hòa mình vào biển cả bao la, và thuần một vị mặn. (Kinh Trung bộ 73).

???? NAMO BUDDHAYA!

Thượng Toạ Viên Minh 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Vai trò của giới luật trong nếp sống thiền môn
Luật, Phật học

Trong tam tạng kinh điển thì luật tạng (vinaya) có một vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Theo thứ tự sắp xếp thông thường thì tam tạng bao giờ cũng được sắp xếp tuần tự từ kinh, luật và luận. Nhưng theo văn học Pāli, luật tạng được xếp đầu tiên sau đó đến kinh và luận. Điều này cho thấy rằng, luật tạng luôn được đặt trọng tâm trong nếp sống tu học của tứ...

Tìm hiểu Thành Thật Luận
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Đức Phật Thích ca Mâu ni, ngay khi còn thị hiện là Thái tử Tất đạt đa đã vì cảm thấu nỗi thống khổ miên trường của kiếp nhân sinh mà xuất gia. Sau khi thành đạo, Ngài đi khắp nơi trong cõi Ấn độ mà thuyết kinh giảng pháp, khai hóa...

Luận khơi dậy đức tin Đại thừa
Luận, Phật học

LUẬN KHƠI DẬY ĐỨC TIN ĐẠI THỪA Nguyên tác: Bồ-tát Mã Minh Hán dịch: Tam tạng pháp sư Chân Đế, người Tây Ấn Độ, dịch vào đời nhà Lương Việt dịch: Sa-môn Nguyên Hùng LỜI BẠT  I. Tác giả Mã Minh (Aśvaghosa, 馬鳴, 100-160), người Trung thiên trúc, vốn xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành Sa-chi-đa, nước Xá-vệ. Thời đại...

Nghĩ về tánh Không
Luận, Phật học

Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau. Nhưng trong Phật giáo, cả hai đều...

Tâm Lý Học Phật Giáo
Luận, Phật học

TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO Thích Chơn Thiện A. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT I. Về tâm lý học phương Tây 1. Các định nghĩa: Các dịnh nghĩa tâm lý học trước thế kỷ XX (tiêu biểu): a. Wilhelm Wundt (1832 – 1920), người Đức: Wundt là nhà sáng lập phòng thực nghiệm về tâm lý đầu tiên gọi là Psychological laboratory (1879), định nghĩa: “Tôi thiết...

Nghiệp Và Các Loại Nghiệp | U Silannanda – Khánh Hỷ dịch
Luận, Phật học

Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo; bởi vì luật Nghiệp Báo đã giải thích cho họ thấy rõ lý do của sự bất đồng của các cá nhân trong xã hội con người, đồng thời cũng giải thích cho họ biết tại sao những người rất tốt trên cõi đời này lại...

Quá trình hình thành giới luật
Luật, Phật học

Những quy tắc đạo đức có một vị trí rất quan trọng trong hầu hết các tôn giáo. Pháp luật hay các quy ước là điều cần thiết đối với bất cứ thành viên nào trong xã hội.Trong mỗi gia đình nếu không có quy tắc, gia đình đó sẽ xảy ra bất đồng; một quốc gia, nếu không có phép nước, thì quốc gia đó sẽ nổi loạn. Trong Phật giáo cũng vậy, giới luật đóng một vai trò vô cùng đặc biệt. Giới được xem...

Nhiếp phục sợ hãi
Phật học

Thông thường sống trên cuộc đời, có bốn việc mà ai cũng sợ gặp phải. Trước nhất con người hiện hữu trên cuộc đời, có cuộc sống thì thường sợ nghèo đói và kế tiếp sợ bạn bè xem thường, rồi sợ già, sợ bệnh và sợ chết, mà Đức Phật gọi bốn thứ này...

Du Già Bồ Tát Giới Bổn – Di Lặc Bồ Tát Tuyên Thuyết
Luật, Phật học

Các vị Bồ tát! sau khi đã thọ lãnh giới pháp thanh tịnh của Bồ tát, phải nên tự mình thường thường chuyên tâm cẩn thận suy ngẫm: “Đây là chỗ Bồ tát nên làm, đây là chỗ Bồ tát không nên làm”. Suy ngẫm như vậy rồi, vì muốn thành tựu công hạnh Bồ tát, cần phải siêng năng tu tập, lại phải chú ý lắng nghe tạng Tố đát lãm, và tạng Ma đát...

Nhân sinh quan theo quan niệm Phật giáo
Luận, Phật học

Trước khi bắt đầu, tôi xin hướng về thành phần Phật tử trong cử tọa hôm nay để nhắc nhở một điều quan trọng, đó là thái độ cần có khi nghe giảng Phật pháp. Quí vị cần ngồi nghe với tâm nguyện thật trong sáng. Lý do chúng ta ngồi đây hôm nay, trao...

Người xuất gia lý tưởng theo kinh Trung A-hàm
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Xuất gia theo đạo Phật là một việc cao cả và không nhiều người làm được, tuy nhiên, một người đã phát bồ-đề tâm quyết chí xuất trần, nếu không gặp thuận duyên từ môi trường sống, cộng đồng Tăng lữ, hay không có vị bổn sư co khả năng hướng dẫn...

Long Thọ Và Khoa Học Lượng Tử
Luận, Phật học

Trong thế giới thường nghiệm, con người quen sống theo một thói quen lấy cá nhân làm trung tâm qui chiếu mọi nhận định, đó là một định chế đã được huân tập từ ngày con người xuất hiện. Quan niệm định chế này còn được củng cố bằng thế giới khoa học nhị nguyên chỉ thấy vũ trụ rất trật tự, gọi là quan điểm Cartesian dualism. Trong một thế giới khoa học rất cụ thể và trật tự rõ ràng như thế, thì quả thật khái niệm vô ngã và tính không bất định của giáo...

Phật thuyết kinh Bà-la-môn mất con
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP “Từ bao đời kiếp, chúng ta đã đổ nước mắt vì người thân quá nhiều: hãy để mình và người thân đừng chìm ngập trong nước mắt ấy nữa.” – đức Phật đã dạy như vậy. Vì dòng nước mắt ấy luôn chất chứa tình yêu luyến ái, chảy ra vị mặn của bi...

Tư tưởng duy tâm trong Kinh Lăng-già
Kinh, Phật học

1. DẪN NHẬP Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh Pháp Lăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923) được ghi chép như sau: Nanjō. 375: इत्यार्यसद्धर्मलङ्कावतारो नाम महायानसूत्रं सगाथकं समाप्तमिति॥ ityāryasaddharmalaṅkāvatāro nāma mahāyānasūtraṃ sagāthakaṃ samāptamiti || (Kết thúc chương chỉnh cú của bản...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Hiểu biết về Tánh không
Luận, Phật học

Việc học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng. Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ là toát yếu sơ lược. Điều vô cùng quan yếu là phải hiểu “Tánh không” có nghĩa là gì. Lại cũng quan trọng để biết Tánh không ở ngay trong tâm mình,...