LUẬN
KHƠI DẬY ĐỨC TIN ĐẠI THỪA
Nguyên tác: Bồ-tát Mã Minh
Hán dịch:
Tam tạng pháp sư Chân Đế, người Tây Ấn Độ, dịch vào đời nhà Lương
Việt dịch: Sa-môn Nguyên Hùng
LỜI BẠT
I. Tác giả
Mã Minh (Aśvaghosa, 馬鳴, 100-160), người Trung thiên trúc, vốn xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành Sa-chi-đa, nước Xá-vệ. Thời đại của ngài cách Phật niết-bàn khoảng sáu trăm năm, tức thế kỷ thứ 3 tây lịch, cùng thời với hoàng đế Ca-ni-sắc-ca. Ngài học rộng, hiểu nhiều, thông thuộc các kinh vệ-đà và các kinh sách liên quan đến vệ-đà. Người ta biết đến ngài là một học giả, nhà hùng biện, nhà trước thuật, nhưng có lẽ người ta biết ngài nhiều nhất bởi thơ và nhạc của ngài. Sử còn ghi lại rằng thơ và nhạc được ngài kết hợp và vận dụng một cách tài tình vào sự truyền pháp, đặc biệt giỏi nhất là điệu Rastrapala, nên nghe đến, ngựa đói cũng phải bỏ ăn. Mã Minh là tên gọi do loài ngựa cũng cảm được thanh nhạc của đại sĩ mà kêu lên.
Theo Đại chính tạng 50, số 163, ghi chép thì sau một lần tranh biện với Hiếp tôn giả (Parsva), Mã Minh cảm nhận được giáo lý nhiệm mầu của Phật pháp và trí tuệ hùng biện vô song của Hiếp tôn giả nên đã phát tâm quy y và xuất gia. Nhưng Đại chính tạng 50, số 314 thì bảo rằng Ngài khuất phục với Phú-na-xa tôn giả (Punyayasas). Xuất xứ này nói rằng, Đại sĩ vốn chấp thật ngã. Khi biện luận với Punyayasas, tôn giả nói Phật pháp có chân lý phổ thông (thế tục đế), quan niệm và phương tiện mượn cái giả mà nói có ngã (do giả thuyết ngã pháp); nhưng đồng thời Phật pháp cũng có chân lý tuyệt đối (thắng nghĩa đế), quan niệm và nói chắc rằng mọi thứ đều không. Tôn giả bảo đại sĩ hãy suy nghĩ cho kỹ rồi phản biện, đừng nói lỡ lời, chúng ta phải ngả ngũ ai thắng ai. Đại sĩ nghĩ, chân lý phổ thông nói giả thì không thật, chân lý tuyệt đối nói chắc thì không cả, vậy nắm cái gì mà đánh đổ? Đại sĩ đành khuất phục và xuất gia theo Phật pháp.
Từ một người chủ trương thật ngã, Mã Minh đại sĩ trở thành một người thấu suốt vô ngã, nên trong các tác phẩm của đại sĩ, như kinh Ni-kiền-tử vấn vô ngã nghĩa, số 1643, Đại chính tạng 32, trang 172-173, chuyên nói về vô ngã qua thật tướng siêu việt có và không.
Chúng ta không thể quyết đoán được Đại sĩ là đệ tử của ai, nhưng một điều có thể khẳng định là Hiếp tôn giả và Phú-na-xa tôn giả đều là thầy của Mã Minh. Tuy nhiên, dù là đệ tử của ai, Ngài vẫn là vị tổ thứ 11 (có chỗ ghi 12) trong 23 vị thuộc hệ thống phú pháp của Phú pháp nhân duyên, truyền trì mạng mạch Phật pháp khiến lưu bố rộng khắp, lợi lạc chúng sinh (Đại chính tạng 50, số 314).
Tác phẩm của Đại sĩ gồm có: tập thơ Tôn-đà-la Nan-đà (Saundarananda-kāvya), Đại thừa trang nghiêm kinh luận (Mahāyāna-sūtrālaṃkāra), Đại thừa khởi tín luận (Mahāyāna-prasāda-prabhāvana), Lục thú luân hồi kinh, Thập bất thiện nghiệp đạo kinh, đặc biệt là thi phẩm Phật sở hành tán (Buddha-carita-kāvya), một tác phẩm nổi tiếng được Ngài chuyển thể từ trong kinh ra.
Đại thừa khởi tín luận là tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng của Mã Minh nhất. Đây là bộ luận hàm chứa tư tưởng Như lai tạng, tiền đề cho Duy thức học sau này, cũng là tiền thân của nhận thức luận Phật giáo. Nhưng gần đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng tác phẩm ấy không phải là của đại sĩ.
II. Các bản dịch
1. Hán dịch
– Bản dịch đầu tiên của Chân Đế (真諦; S. Paramārtha), phiên dịch tại chùa Kiến Hưng, thuộc Hoàng Châu, có sự cộng tác của nhiều người, vào niên hiệu Thừa Thánh thứ ba thuộc triều Lương Nguyên Đế, nhằm năm 553.
Bản dịch này được hầu hết các luận sư sớ giải cũng như được chọn làm bản nghiên cứu và dịch ra các ngôn ngữ khác.
– Bản dịch thứ hai của Thật-xoa-nan-đà (實叉難陀; S. Śikṣānanda), dịch vào đời Đường, năm 669.
Bản dịch này chỉ có một bản sớ giải của ngài Trí Húc đời Minh, trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh và ít được trích dẫn trong các nghiên cứu học đường.
2. Việt dịch
– Bản Việt dịch đầu tiên có thể là của cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dù chỉ mới là bản thảo và được biết đến nhờ sự giới thiệu của HT. Thích Trí Quang giới thiệu trong phần phụ lục của Khởi tín luận do chính ngài dịch.
– Bản Việt dịch thứ hai là của HT. Thích Trí Quang in năm 1949, sau đó được hiệu đính, sổ sung, chú thích đầy đủ và in lại năm 1995.
– Bản Việt dịch thứ ba là của HT. Thích Thiện Hoa dịch năm 1962, in trong Phật học phổ thông khóa X-XI.
– Bản Việt dịch thứ tư là của cư sĩ Tâm Nguyên Cao Hữu Đính, in năm 1996.
Ngoài ra còn có một số bản dịch khác, như của HT. Thích Liêm Chính, cư sĩ Chân Hiền Tâm…
III. Nội dung
Đại thừa khởi tín luận là Luận văn khơi dậy đức tin Đại thừa, nhưng thật dễ lầm lẫn thay khi từ Đại thừa ở đây không có nghĩa đối lại với Tiểu thừa hay thừa nào khác, tức là bộ luận hoàn toàn không có ý nghĩa chiêu mộ tín đồ đi theo phong trào Phật giáo phát triển mà ta gọi là Phật giáo Đại thừa, để rồi quay lưng với Phật giáo Nguyên thỉ hay Tiểu thừa. Thật bất ngờ cho những ai có đầu óc ngây ngô chứa đầy sự phân biệt khi biết rằng từ Đại thừa ở đây được Mã Minh đại sĩ dùng để định nghĩa cho cái Tâm! Và vì vậy, Đại thừa khởi tín là khơi dậy đức tin tin cái Tâm Đại thừa, và nói thẳng Đại thừa là Tâm chúng sinh.
Mở đầu luận Đại thừa khởi tín, tác giả ghi: “con viết bộ luận này để chỉ cho chúng sinh diệt trừ hoài nghi, loại bỏ chấp lầm, có thể phát sinh đức tin Đại thừa, làm cho hạt giống Phật không bị mất đi.”
Chúng sinh hoài nghi cái gì? Chấp lầm cái gì? Hoài nghi về Đại thừa, và chấp lầm có nghĩa là nhận thức lệch lạc hay chưa chính xác về Đại thừa. Sự hoài nghi ấy phát sinh từ kiến chấp cho rằng Phật chỉ là La hán, và không ai có thể như Phật. Đại thừa xác quyết, Phật không chỉ là La hán. Và khẳng định ai cũng có thể thành Phật. Mà muốn thành Phật thì phải lấy đức tin Đại thừa làm hạt giống tạo nên.
Lấy đức tin Đại thừa làm hạt giống chính là lấy cái Tâm, tin Phật chính là cái Tâm này. Đại thừa được hiểu như thế, nên nó được định nghĩa một cách tổng quát: “có hai: một là bản thân Đại thừa, hai là ý nghĩa của bản thân ấy.”
Bản thân Đại thừa thì chính là Tâm chúng sinh. Tâm ấy bao gồm toàn thể pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Nói cách khác, Tâm ấy bao gồm cả hai mặt, mặt Chân như và mặt sinh diệt. Chân như là thể của Tâm, sinh diệt la tướng dụng của Tâm. Tâm như vậy bao hàm tất cả và được ví dụ như nước. Nước gồm có nước, tính ướt của nước và sóng. Sóng thì có cao, có thấp, có cả sóng thần. Nước thì có thể là mây, là mưa, là băng, là tuyết, là nước đá, là sông hồ biển cả… Nhưng tính của nước chỉ có ướt mà thôi. Tâm của chúng sinh cũng vậy. Thể của Tâm như tính ướt, tướng của Tâm như nước, và dụng của Tâm như sóng. Cho nên, có khi chúng sinh là người, là trời, là a-tu-la, là ngạ quỷ, súc sinh… phải sinh tử luân hồi, trôi lăn trong ba cõi, nhưng Tâm chân như của nó không bao giờ thay đổi. Tâm chân như ấy là Phật tính. Vì vậy, Phật giáo tôn trọng tất cả mọi loài chúng sinh và tin rằng tất cả rồi sẽ thành Phật. Niềm tin ấy đã trở thành một động lực hình thành nên cả một hệ thống giáo dục chuyển hoá rất nhân bản mà không một hệ thống giáo dục tiên tiến nào trên thế giới có thể so sánh được. Đại tướng cướp Angulimàla được chuyển hoá thành A-la-hán Bất Hại là một minh chứng vậy!
Bản thân Đại thừa như vậy nên ý nghĩa của bản thân ấy đều là vĩ đại. Một là thể vĩ đại. Thể là Chân như. Chân như thì nhất quán và bất biến, dù là chúng sinh, dù là Phật, tất cả đều như thị. Hai là tướng vĩ đại. Tướng là Như lai tạng, chứa đủ mọi tánh đức. Ba là dụng vĩ đại, là xuất sinh toàn bộ nhân quả của thế gian và xuất thế gian.
Thể tướng dụng như vậy đều là biểu hiện và là hai mặt của Tâm. Mặt chân như (thể) và mặt sinh diệt (tướng, dụng). Cả hai mặt đều bao quát toàn thể các pháp và không phải tách rời nhau. Như hai mặt của một bàn tay. Mặt chân như là tâm thể phi sinh diệt. Hết thảy các pháp chỉ do phân biệt mà có sai biệt, tách rời phân biệt thì đối tượng cũng không có. Cho nên, vạn pháp xưa nay phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất quán, không hề chuyển biến, không thể phá huỷ. Tâm như vậy là Nhất tâm – cái Tâm đồng nhất. Đồng nhất thế nào? Đồng nhất giữa các pháp với các pháp, giữa chúng sinh với chúng sinh, giữa chúng sinh với Phật. Khởi tín khẳng định: Hết thảy Phật đà đã vận dụng và hết thảy Bồ Tát đang vận dụng cái Tâm như vậy mà đạt đến địa vị Như lai.
Mặt sinh diệt là mặt chuyển biến của Tâm, tức có nghĩa là bấy giờ Như lai tạng đã chuyển danh thành A-lại-da thức. A-lại-da thức là mặt hiện tượng của Tâm. Hiện tượng từ nơi tự tánh mà có. Hiện tượng và tự tánh không phải một, không phải là hai. Đó là A-lại-da. A-lại-da có nghĩa là hàm chứa và làm phát hiện tất cả các pháp. Từ A-lại-da, tất cả các hoạt động của tâm thức sinh khởi lên giống như những cơn sóng, do tập khí làm nguyên nhân, tất cả sự vật được sinh ra phù hợp với các điều kiện của nhân duyên. Giống như nước, nếu ở trong chai sẽ có hình cái chai, ở trong tách trà sẽ có hình tách trà, nhưng không có một sự khác biệt nào về tính ướt của nó. Cũng vậy, chúng sinh nếu do tập khí tham, sân, si… sẽ có hình dạng địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh… và đó đeu là những con sóng A-lại-da hết. Nếu những con sóng này lắng xuống, thì mặt hồ Như lai tạng trở lại trạng thái thanh tịnh nguyên sơ của nó. Do đó, là giác ngộ hay khổ đau đều do mỗi chúng sinh tự quyết định.
Tóm lại, Tâm chúng sinh mà được gọi là Đại thừa là vì Tâm ấy vĩ đại, Tâm ấy có thể đưa đến địa vị Như lai nên gọi là thừa. Và đức tin Đại thừa chính là tin vào thể tướng dụng của Tâm. Đức tin Đại thừa là tin Phật đã giác ngộ về Tâm, đã thực chứng về Tâm, có thể khai thị Tâm ấy, và chỉ cho người khác cũng tin tưởng và giác ngộ Tâm ấy.
A. Mở đầu
1. Quy kính Tam bảo
Kính lễ khắp mười phương
Đấng Toàn giác, Tối thắng
Thân tự tại, vô ngại
Tâm đại bi cứu đời
Thể tướng của thân Phật
Biển pháp tính chân như
Kho công đức vô lượng
Đúng như thật tu hành.
2. Bạch ý nguyện
Vì muốn giúp chúng sinh
Trừ nghi, bỏ tà chấp
Khởi chánh tín đại thừa
Không đoạn hạt giống Phật.
B. Phần thuyết trình
I. Phân định 5 phần
Luận rằng: Có một hệ giáo pháp có khả năng khơi dậy gốc rễ đức tin Đại thừa cho nên cần phải trình bày. Trình bày bằng năm phần. Là năm phần nào? Một là phần lý do, hai là phần chủ thuyết, ba là phần giải thích, bốn là phần tín tâm tu hành, năm là phần lợi ích khuyên tu.
II. Thuyết trình năm phần
1. Phần lý do
1.1. Nói lý do
Trước hết nói phần lý do.
Hỏi rằng: Vì lý do nào mà sáng tác bộ luận này?
Đáp rằng: Là vì có tám lý do. Những gì là tám? Một là, lý do tổng quát, nghĩa là vì muốn giúp chúng sinh thoát khỏi tất cả khổ đau, đạt được an vui tuyệt đối, chứ chẳng phải mong cầu danh lợi hay sự cung kính của thế gian. Hai là, vì muốn giải thích nghĩa lý căn bản của Như Lai để giúp các chúng sinh hiểu biết chân chính, không lầm lạc. Ba là, vì muốn giúp chúng sinh thành thục căn lành để tiếp nhận giáo pháp đại thừa, không thoái thất niềm tin. Bốn là, vì muốn giúp những chúng sinh có ít căn lành tu tập tín tâm. Năm là, vì để chỉ bày phương tiện tiêu trừ những chướng ngại do nghiệp xấu ác, khéo giữ gìn tâm mình, xa lìa ngu si, kiêu mạn, thoát khỏi mạng lưới tà kiến. Sáu là, vì muốn chỉ bày cách thức tu tập thiền chỉ và thiền quán nhằm chuyển hóa cái tâm mê lầm của hàng phàm phu và nhị thừa. Bảy là, vì muốn chỉ bày phương pháp chuyên tâm niệm Phật để được sinh về trước [mặt] Đức Thế Tôn, nhất định tín tâm không còn thoái chuyển. Tám là, vì muốn cho thấy lợi ích để khuyến khích tu hành. Vì những lý do như vậy cho nên sáng tác bộ luận này.
1.2. Thắc mắc
Hỏi rằng: Trong kinh điển đã có đầy đủ những pháp nêu trên, vì sao còn phải lặp lại?
Đáp rằng: Trong kinh điển tuy đã có đầy đủ những pháp nêu trên, song vì chúng sinh căn cơ hạnh nghiệp không giống nhau, cho nên sự tiếp nhận và hiểu biết có khác. Nghĩa là, khi Đức Phật còn ở đời, chúng sinh căn tính lanh lợi, người thuyết giảng [là Đức Phật] có thân tâm thù thắng và âm thanh toàn hảo nên một khi diễn giảng thì mọi loài khác nhau mà cùng nhận hiểu như nhau, do đó không cần tạo luận. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật diệt độ, có những chúng sinh bằng năng lực của mình học rộng nghe nhiều mà tự hiểu lấy; có những chúng sinh cũng bằng vào năng lực của mình nhưng nghe ít học ít mà tự hiểu được nhiều; có những chúng sinh không nhờ vào tâm lực của mình mà phải nhờ vào những bộ luận lớn mới hiểu được; có những chúng sinh lại thấy những bộ luận lớn, văn chữ quá dài là phiền phức, tâm họ ưa thích thâu tóm trong vài câu văn ngắn gọn mà đầy đủ nghĩa lý để có thể nhận hiểu. Bộ luận này là [nhắm đến những người sau cùng] như vậy. Vì muốn thâu tóm toàn bộ giáo pháp sâu xa, rộng lớn, nghĩa lý vô biên của Như Lai mà cần phải sáng tác bộ luận này.
2. Phần chủ thuyết
– Định nghĩa Đại thừa
Đã nói phần lý do, tiếp theo sẽ trình bày phần chủ thuyết.
Đại thừa, nói một cách tổng quát thì bao hàm hai ý nghĩa. Là hai ý nghĩa nào? Một là pháp [đại thừa], hai là ý nghĩa [của pháp đại thừa ấy].
Pháp [đại thừa] được nói ở đây chính là tâm của chúng sinh. Tâm này thâu nhiếp toàn bộ pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Căn cứ cái tâm này mà hiển thị ý nghĩa đại thừa. Vì sao vậy? Vì về phương diện chân như của tâm thì nó biểu hiện bản thể của đại thừa, về phương diện nhân duyên sinh diệt của tâm thì nó biểu hiện tự thể, tướng trạng và hoạt dụng của đại thừa.
Ý nghĩa được nói ở đây có thì có ba nghĩa. Là ba nghĩa nào? Một là, bản thể vĩ đại, vì bản thể chân như của tất cả các pháp là bình đẳng, không thêm, không bớt. Hai là, tướng trạng vĩ đại, vì như lai tạng chứa đựng đầy đủ vô lượng công đức. Ba là, hoạt dụng vĩ đại, vì có khả năng sinh ra tất cả nhân và quả thiện lành của thế gian và xuất thế gian.
Tất cả chư Phật đã vận dụng cái tâm này, tất cả chư vị Bồ-tát đang vận cái tâm này mà đi đến địa vị Như Lai.
Đã trình bày xong phần chủ thuyết.
3. Phần giải thích
– Phân định 3 mục:
Tiếp theo trình bày về phần giải thích.
Phần giải thích có ba vấn đề. Là ba vấn đề nào? Một là, giải thích nghĩa lý chính xác về tâm. Hai là, sửa chữa chấp thủ sai lầm. Ba là, phân biệt tướng trạng phát tâm.
3.1. Nghĩa lý chính xác về tâm
– Hai mặt của tâm
Giải thích nghĩa lý chính xác về tâm đó là, tâm này có hai mặt. Là hai mặt nào? Một là mặt chân như. Hai là mặt sinh diệt. Cả hai mặt này, mặt nào cũng thâu nhiếp toàn bộ các pháp. Nghĩa này là sao? Là vì cả hai mặt này không thể tách rời nhau.
a. Chân như
Tâm chân như chính là bản thể pháp giới đồng nhất và toàn bộ giáo pháp [của Phật]. Đó chính là tâm tính không sinh không diệt. Tất cả các pháp chỉ dựa vào vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng trạng tất cả cảnh giới. Do đó, hết thảy các pháp từ xưa đến nay lìa tướng nói năng, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên, tuyệt đối bình đẳng, không hề chuyển biến, không thể phá hủy, chỉ là cái tâm thể đồng nhất cho nên gọi là chân như. Mọi ngôn ngữ đều là giả có, chứ không thật có, chỉ tùy theo vọng niệm chứ không thể nắm bắt được. Gọi là chân như, thực ra cũng chẳng phải là một đối tượng. Nghĩa là chỗ tận cùng của ngôn ngữ, do ngôn ngữ mà loại bỏ ngôn ngữ giả lập, nhưng bản thể chân như thì không thể phá hủy, vì tất cả các pháp đều là chân thật; cũng không thể thiết lập, vì tất cả các pháp đều là như. Phải biết rằng tất cả các pháp không thể diễn tả, không thể phân biệt, đó gọi là chân như.
Hỏi rằng: Theo ý nghĩa vừa trình bày thì các chúng sinh làm sao có thể thể nhập được chân như?
Đáp rằng: Nếu biết rằng, dù diễn tả tất cả các pháp nhưng vốn không có chủ thể diễn tả và đối tượng được diễn tả, dù có phân biệt nhưng không có chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt. Đó là tùy thuận. Nếu lìa được tâm phân biệt thì được thể nhập chân như.
a.1. Như thật không
Lại nữa, chân như mà phân tích theo ngôn ngữ thì có hai nghĩa. Là hai nghĩa nào? Một là, Như thật không,[1] vì biểu hiện sự thật một cách trọn vẹn.
a.2. Như thật bất không
Hai là, Như thật bất không,[2] vì có tự thể đầy đủ mọi phẩm tính công đức thanh tịnh.
Tính không [đúng như sự thật] được nói ở đây là vì, từ xưa đến nay, chân như không tương ưng với mọi pháp ô nhiễm, nghĩa là xa lìa sắc thái sai biệt của tất cả các pháp, hoàn toàn không có tâm niệm hư vọng. Nên biết, tự tính chân như chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải không có, chẳng phải không không, chẳng phải vừa có vừa không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải không phải một, chẳng phải không phải khác, chẳng phải vừa một vừa khác. Cho đến, nói một cách tổng quát, cho dù tất cả chúng sinh đều có vọng niệm phân biệt liên tục, nhưng mọi sự vọng niệm phân biệt ấy đều không tương ưng [với chân như], cho nên nói là Không.
Chẳng phải không, [tức là có đúng như sự thật] được nói ở đây nghĩa là, đã hiểu rõ thật thể của các pháp là không, không có vọng niệm, thì thật thể ấy chính là chân tâm thường hằng bất biến, đầy đủ pháp thanh tịnh, cho nên gọi là Có. [Nói rằng có] nhưng cũng không có đối tượng để nắm bắt, vì cảnh giới ấy đã thoát ly mọi vọng niệm, chỉ có sự chứng ngộ mới tương ưng.
b. Sinh diệt
Sinh diệt và sinh diệt liên tục biểu thị thể tướng dụng vĩ đại của tâm trong hai lĩnh vực mê và ngộ
b.1. Nói tổng quát
Tâm sinh diệt là dựa vào như lai tạng mà có tâm sinh diệt. Nghĩa là, tâm bất sinh bất diệt hòa hợp với tâm sinh diệt, chẳng phải một, chẳng phải khác, đó gọi là thức a-lại-da. Thức a-lại-da này có hai mặt, có khả năng thâu nhiếp tất cả các pháp và khả năng sinh ra tất cả các pháp. Là hai mặt nào? Mặt tuệ giác và mặt bất giác.
b.2. Giác và bất giác
Tuệ giác được nói ở đây có nghĩa là tâm thể đã thoát ly mọi phân biệt. Tâm thể thoát ly mọi phân biệt này đồng với hư không giới, phổ biến cùng khắp, không đâu mà không có. Pháp giới đồng nhất một sắc thái chính là pháp thân bình đẳng của Như Lai. Dựa vào pháp thân này mà gọi tên là bản giác (tuệ giác vốn có). Vì sao vậy? Vì bản giác là so với thỉ giác (tuệ giác mới có) mà nói, nhưng thỉ giác thì cũng đồng với bản giác. Nghĩa của thỉ giác là, dựa vào bản giác mà có bất giác, dựa vào bất giác mà nói có thỉ giác. Lại nữa, nếu giác ngộ triệt để nguồn tâm thì gọi là tuệ giác tột cùng, không giác ngộ triệt để nguồn tâm thì không có tuệ giác tột cùng.
+ Bốn trạng thái giác ngộ:
* Cái biết của hàng phàm phu (hàng thập tín): Bất giác, Giả danh giác
Điều này có nghĩa là gì? Như hạng người phàm phu nhận biết được niệm trước khởi lên là xấu ác nên chế ngự niệm sau khiến nó chẳng khởi, làm được như vậy tuy cũng gọi là giác ngộ nhưng thật chất vẫn là bất giác.
* Cái biết của hàng Nhị thừa và các vị Bồ-tát mới phát tâm: Tương tự giác
Như trí tuệ quán chiếu của hàng Nhị thừa và Bồ-tát mới phát tâm, nhận biết được vọng niệm phân biệt, do đó chuyển ý niệm về sự không phân biệt, nhờ đó xả bỏ được sự cố chấp vào ý niệm phân biệt thô. Đây gọi là giác ngộ tượng tự.
* Cái biết của Bồ-tát đã chứng Pháp thân: Tùy phần giác
Như các vị Bồ-tát chứng ngộ pháp thân, nhận biết tâm niệm phân biệt bám trụ [tâm thể], nên chỉ theo cái phân biệt không bám trụ, như vậy là xả bỏ cái phân biệt thô nhất, nên gọi là là tuệ giác tùy phần.
* Cái biết của Bồ-tát đẳng giác: Cứu cánh giác
Như các bị Bồ-tát đã hoàn tất các giai đoạn tu chứng, thực hành trọn vẹn các pháp phương tiện, đạt được trạng thái tâm thể nhất như, nhận biết được căn nguyên hiện khởi của tâm, mà thật ra tâm đâu có trạng thái khởi điểm ấy, do đó xa lìa mọi ý niệm phân biệt nhỏ nhiệm nhất, thấy được tâm tính, tâm tính đó thường trụ, gọi là tuệ giác tuyệt đối.
Do những trường hợp trên, cho nên trong kinh nói rằng: “Nếu chúng sinh nào có khả năng quán chiếu về vô niệm (tức không phân biệt) thì người ấy hướng về tuệ giác của Phật-đà.”
Lại nữa, nói tâm hiện khởi, nhưng thật ra không có trạng thái khởi điểm có thể nhận biết, mà nói là nhận biết căn nguyên hiện khởi thì đó chính là vô niệm (tức không phân biệt). Cho nên, hết thảy chúng sinh không được gọi là giác, bởi vì từ xưa đến nay chúng sinh mãi niệm niệm liên tục, chưa bao giờ thoát ly ý niệm phân biệt, nên nói là vô thỉ vô minh (tức sự bất giác có từ vô thỉ). Nếu ai đạt được vô niệm (tức không phân biệt) thì sẽ nhận biết được trạng thái sinh, trụ, dị, diệt của tâm. Do vì vô niệm thì đồng đẳng, nên thật ra không có thỉ giác nào khác, vì nó có cùng lúc với bốn trạng thái sinh, trụ, dị, diệt và không tồn tại riêng biệt, từ xưa đến nay bình đẳng, đồng nhất với tuệ giác.
– Thể và dụng của tuệ giác sau khi hoàn thiện thỉ giác
Lại nữa, bản giác mà đứng về phương diện nhiễm ô thì phân biệt có hai sắc thái và nó chưa bao giờ tách rời bản giác. Là hai sắc thái nào? Một là sắc thái trí tuệ thanh tịnh. Hai là sắc thái nghiệp dụng không thể nghĩ bàn.
Sắc thái trí tuệ thanh tịnh là nhờ năng lực huân tập chính pháp, tu tập đúng đắn, đầy đủ phương tiện để phá vỡ sự liên kết của thức, diệt trừ trạng thái liên tục của tâm nhằm hiển lộ pháp thân và tuệ giác thuần khiết. Điều này có nghĩa là gì? Là vì mọi trạng thái tâm thức đều là vô minh. Tuy nhiên, sắc thái vô minh lại không tách rời tính giác, do đó không thể hủy hoại, mà cũng không thể không hủy hoại. Ví như nước trong đại dương, do gió thổi mà nổi sóng, sóng và gió không ngừng chuyển động mà tính ướt của nước không hề động. Nếu gió ngừng chuyển động thì sóng cũng lặng, nhưng tính ướt của nước thì không hề mất. Cũng vậy, tâm của chúng sinh tự tính vốn thanh tịnh, nhưng do vì gió vô minh làm cho khuấy động. Tâm thức và vô minh đều không hình, không tướng và không thể tách rời nhau, nhưng tâm thể thì không lay động. Do đó, một khi vô minh diệt thì sự tương tục của tâm thức cũng diệt, nhưng trí tính thì không bao giờ mất.
Sắc thái nghiệp dụng không thể nghĩ bàn là nương vào sắc thái trí tuệ thanh tịnh mà phát sinh tất cả những cảnh giới thù thắng vi diệu. Đó chính là điều thường được nói là công đức vô lượng, thường hằng không gián đoạn, không tiêu mất, tùy theo căn tính của chúng sinh mà tự nhiên thích ứng, được thấy dưới nhiều hình thức và đạt được lợi ích.
Tính thanh tịnh của bản giác
Lại nữa, tướng trạng thể tính của bản giác có bốn sự vĩ đại đồng đẳng như hư không và cũng giống như tấm gương trong suốt. Là bốn sự nào?
Một là, tấm gương vắng lặng đúng như chính nó[3] vì đã vĩnh viễn xa lìa mọi tướng trạng, cảnh giới của tâm thức, hoàn toàn không có bất cứ tướng trạng nào ảnh hiện. Phần này không nói đến ý nghĩa phản chiếu của bản giác.
Hai là, tấm gương của sự huân tập. Nghĩa là, [bản giác] vốn chẳng phải hoàn toàn không [có gì, mà ngược lại, nó có một cách đúng như chính nó], vì tất cả cảnh giới thế gian đều biểu hiện trong đó, không xuất ra hay nhập vào, không biến mất hay hủy diệt, thường tồn tại trong tâm thể đồng nhất. Hết thảy các pháp chính là tính chân thật. Hơn nữa, tất cả các pháp nhiễm ô vốn không thể làm cho [bản giác] nhiễm ô, vì bản thể của tuệ giác là bất động và đầy đủ phẩm chất thuần khiết, nên chúng sinh có thể huân tập.
Ba là, tấm gương pháp đã xuất ly [mọi chướng ngại]. Nghĩa là, tâm thể vốn chẳng phải không, [tức hiện hữu như chính nó] thoát khỏi sự chướng ngại của phiền não và sự chướng ngại hiểu biết, tách rời trạng thái liên kết và hoàn toàn trong sáng, thuần khiết.
Bốn là, tấm gương nhân duyên huân tập. Nghĩa là, dựa vào pháp đã xuất ly mà tâm thể của chúng sinh sáng soi cùng khắp, giúp chúng sinh tu tập thiện căn, tùy theo ý niệm mà biểu hiện trọn vẹn.
Nói về Bất giác
Bất giác được nói ở đây có nghĩa là không biết một cách đúng như sự thật về pháp chân như đồng nhất. Do bất giác cho nên tâm mới khởi sinh ý niệm phân biệt. Ý niệm phân biệt này vốn không có tự thể riêng biệt và không tách rời bản giác. Ví như người lạc đường là bởi vì có phương hướng mới có sự lạc đường, nếu không có phương hướng thì làm gì có sự lạc đường?! Chúng sinh cũng như vậy, vì có giác nên mới có mê, nếu không có tuệ giác thì cũng không có bất giác. Do có tâm vọng tưởng bất giác nên mới biết về tên gọi và ý nghĩa để nói về chân giác. Nếu không có tâm bất giác thì cũng không có tự tướng của chân giác để nói đến.
Ba hình thái bất giác vi tế
Lại nữa, dựa vào bất giác cho nên phát sinh ba hình thái, và cả ba hình thái này tương ưng với bất giác mà không thể tách lìa. Là ba hình thái nào?
Một là, hình thái của nghiệp do vô minh. Do vì dựa vào bất giác cho nên tâm vọng động, và gọi đó là nghiệp. Giác thì không vọng động. Vọng động thì có khổ, bởi vì hậu quả đi liền với nguyên nhân.
Hai là, hình thái của chủ thể nhận thức. Do vì tâm vọng động cho nên có nhận thức, không vọng động thì không có nhận thức.
Ba là, hình thái của đối tượng nhận thức. Do chủ thể nhận thức mà hình thành đối tượng nhận thức, tức cảnh giới hư vọng hiện khởi; nếu tách rời chủ thể nhận thức thì đối tượng nhận thức cũng không có.
Sáu hình thái bất giác thô
Duyên vào đối tượng nhận thức này mà phát sinh thêm sáu hình thái nữa. Là sáu hình thái nào?
Một là, hình thái nhận thức phân biệt. Dựa vào cảnh giới [tức đối tượng nhận thức] mà sinh khởi tâm phân biệt, hoặc yêu, hoặc ghét.
Hai là, hình thái tiếp nối liên tục. Do nhận thức phân biệt mà phát sinh cảm thọ khổ, vui. Cảm thọ này khởi lên tương ứng liên tục, không gián đoạn.
Ba là, hình thái chấp thủ. Do duyên theo cảnh giới mà cảm thọ liên tục, cho nên giữ mãi khổ, vui trong lòng.
Bốn là, hình thái dính mắc từ ngữ. Do vọng chấp, phân biệt mà hình thành ngôn ngữ giả lập.
Năm là, hình thái tạo tác nghiệp. Dựa vào ngôn ngữ rồi tìm cầu, rồi dính mắc mà tạo nên vô số nghiệp.
Năm là, hình thái khổ đau do hậu quả của nghiệp. Do tạo nhiệp mà phải nhận lấy quả báo không được tự do.
Nên biết, do vô minh mà sinh ra tất cả các pháp nhiễm ô, tất cả các pháp nhiễm ô đều là bất giác.
Đối quán Giác với Bất giác
Lại nữa, giữa giác và bất giác có hai hình thái. Là hai hình thái nào? Một là đồng nhất. Hai là dị biệt. Đồng nhất là ví như mọi thứ đồ gốm đều làm từ đất mịn, cũng vậy, mọi nghiệp dụng hư huyễn, vô lậu hay vô minh đều cùng bản thể với chân như. Cho nên, trong kinh đã căn cứ vào ý nghĩa chân như này mà nói hết thảy chúng sinh xưa nay thường trú trong pháp niết-bàn, bồ-đề. Bồ-đề, niết-bàn không cần phải tu mới có, không phải được chế tác ra, tuyệt đối không thể nắm bắt được. Bồ-đề, niết-bàn cũng không có sắc tướng để thấy; nếu thấy có sắc tướng thì đó chỉ là sự biểu hiện theo nghiệp hư huyễn nhiễm ô [của chúng sinh mà thôi], chứ không phải là sắc tướng hiện khởi đúng như chính nó trong tuệ giác chân thật, bởi vì sắc tướng của tuệ giác thì không thể thấy được.
Dị biệt là như các loại đồ gốm mỗi thứ đều khác nhau, cũng vậy, vô lậu và vô minh tùy theo sự nhiễm ô hư huyễn mà khác nhau. Đặc tính của nhiễm ô hư huyễn là sự khác biệt.
Nói yếu tố làm cho ô nhiễm (Bất giác)
Lại nữa, nhân duyên sinh diệt là chúng sinh nương nơi tâm, ý và ý thức mà có sự chuyển biến. Điều này có nghĩa là gì? Là do nương vào thức a-lại-da mà nói có vô minh bất giác dấy khởi thành chủ thể nhận thức, chủ thể biểu hiện, chủ thể chấp thủ cảnh giới, phân biệt liên tục và gọi đó là ý [tức thức thứ bảy]. Ý này lại có năm tên gọi nữa. Những gì là năm? Một gọi là nghiệp thức,[4] đó là là năng lực bất giác vô minh khuấy động bản tâm. Hai gọi là chuyển thức,[5] đó là do bản tâm bị khuấy động mà hình thành nhận thức chủ quan. Ba gọi là hiện thức,[6] đó là khả năng biểu hiện tất cả cảnh giới, giống như tấm gương sáng hiện rõ mọi cảnh tượng. Hiện thức cũng như vậy, tùy theo năm trần cảnh xuất hiện, nó lập tức biểu hiện mà không có trước sau, vì nó luôn luôn có mặt. Bốn gọi trí thức, tức là thức phân biệt, phân biệt pháp nhiễm, pháp tịnh. Năm gọi là tương tục thức, vì thức phân biệt liên tục không gián đoạn. Chính thức này duy trì nghiệp thiện, ác từ vô lượng kiếp trong quá khứ khiến cho không mất, đồng thời làm cho thành thục quả báo khổ, vui ở hiện tại và tương lai không sai lạc, và ngay hiện tại, những việc đã quá nó có khả làm cho bỗng nhiên nhớ lại, những việc chưa đến nó làm cho bỗng nhiên nghĩ ra.
Cho nên, ba cõi hư ngụy đều do tâm biến hiện ra, nếu lìa tâm thì không có cảnh giới sáu trần. Điều này có nghĩa là gì? Là tất cả các pháp đều từ tâm khởi niệm phân biệt mà sinh. Mọi ý niệm phân biệt như vậy đều là phân biệt chính tự tâm của mình, nhưng tâm không thể thấy tâm và không thể nắm bắt.[7] Nên biết rằng, hết thảy mọi cảnh giới ở thế gian đều do vọng tâm vô minh của chúng sinh mà sinh ra và tồn tại. Cho nên, hết thảy các pháp giống như ảnh tượng trong gương, không có thực thể và không thể nắm bắt, chỉ là vọng tâm hư huyễn. Tâm sinh thì vạn pháp đều sinh, tâm diệt thì vạn pháp đều diệt.
Lại nữa, nói về ý thức, tức là chính cái thức tương tục này. Do chúng sinh phàm phu chấp thủ, dính mắc xoay vần đắm sâu trong ngã, ngã sở, mỗi mỗi vọng chấp, theo việc phan duyên, phân biệt sáu trần, đó gọi là ý thức, cũng gọi là phân ly thức, phân biệt sự thức. Thức này dựa vào phiền não ngã kiến và ngã ái mà lớn thêm lên.
Nói yếu tố làm cho trong sáng (Giác)
Do huân tập vô minh mà thức sinh khởi. Điều này hàng phàm phu không thể biết, trí tuệ của hàng nhị thừa cũng không hay, còn hàng bồ-tát từ khi có chánh tín phát tâm quán sát cho đến chứng được pháp thân thì cũng chỉ biết được đôi phần, và ngay cả bồ-tát đã đến địa vị rốt ráo cũng không thể thấu suốt triệt để. Duy chỉ có Phật mới thấy biết tận cùng. Vì sao vậy? Vì tâm thể từ xưa đến nay tự tính vốn thanh tịnh mà có vô minh, bị vô minh vấy nhiễm, thành ra tâm bị nhiễm ô. Tuy tâm có bị nhiễm ô nhưng [tâm thể] vẫn thường hằng bất biến. Ý nghĩa này chỉ có Phật mới có khả năng thấu triệt, rằng tâm thể thường không phân biệt cho nên gọi là bất biến. Do không thấu đạt pháp giới đồng nhất nên tâm không tương ưng, và bỗng nhiên phân biệt dấy khởi gọi là vô minh.
Tâm nhiễm ô có sáu loại. Là sáu loại nào? Một là nhiễm ô tương ứng với sự chấp thủ. Sự nhiễm ô này phải đến địa vị giải thoát của nhị thừa và bồ-tát có chánh tín mới đoạn trừ hết. Hai là nhiễm ô tương ứng với sự không gián đoạn. Sự nhiễm ô này phải đến địa vị bồ-tát có chánh tín tu học phương tiện mới dần đoạn trừ và đạt được địa vị bồ-tát có tâm thanh tịnh mới đoạn trừ hoàn toàn. Ba là nhiễm ô tương ứng với sự phân biệt. Sự nhiễm ô này ở địa vị bồ-tát đầy đủ giới thì tạm thoát ly, cho đến địa vị bồ-tát vô tướng phương tiện thì thoát ly hoàn toàn. Bốn là nhiễm ô tương ứng với năng lực biểu hiện cảnh giới. Sự nhiễm ô này phải đến địa vị sắc tự tại [tức địa vị thứ tám trong mười địa] mới đoạn trừ. Năm là nhiễm ô tương ứng với chủ thể nhận thức. Sự nhiễm ô này phải đến địa vị tâm tự tại [tức địa vị thứ chín trong mười địa] mới đoạn trừ. Sáu là nhiễm ô tương ứng với nghiệp căn bản. Sự nhiễm ô này phải đến địa vị cuối cùng của bồ-tát [tức bồ-tát thập địa], thể nhập vào địa vị Như Lai mới đoạn trừ hoàn toàn.
Không thấu triệt pháp giới đồng nhất nghĩa là, từ địa vị tương ứng với bồ-tát có chánh tín tu học quán chiếu và đoạn trừ, đến địa vị bồ-tát có tâm thanh tịnh thì đoạn trừ từng phần, và khi đến địa vị Như Lai thì mới có khả năng đoạn trừ hoàn toàn.
Nói tương ứng nghĩa là sự phân biệt khác nhau của tâm, tức là sự khác biệt giữa nhiễm ô và thanh tịnh, nhưng chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức luôn tương đồng. Không tương ứng nghĩa là, sự bất giác của tâm thường không riêng khác, nhưng chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không tương đồng.
Lại nữa, tâm nhiễm ô còn được gọi là phiền não chướng, vì nó hay chướng ngại trí căn bản của Chân Như. Còn vô minh thì gọi là trí ngại, vì nó hay chướng ngại Nhất thiết trí. Điều này có nghĩa là gì? Là vì khi tâm nhiễm ô thì chủ thể nhận thức, chủ thể biểu hiện, cảnh giới bị vọng chấp luôn trái với tâm thể bình đẳng. Hết thảy các pháp thường tĩnh lặng, không có tướng dấy khởi, còn bất giác vô minh thì trái với pháp này nên không thể thích ứng với Nhất thiết trí để hiểu biết mọi cảnh giới trong thế gian.
Nói sắc thái sinh diệt
Lại nữa, nếu phân biệt sắc thái sinh diệt thì có hai loại. Là hai loại nào? Một là thô, vì cùng tương ứng với tâm. Hai là vi tế, vì không cùng tương ứng với tâm. Thô nhất trong những sắc thái thô là cảnh giới của phàm phu. Vi tế nhất trong những sắc thái thô và thô nhất trong những sắc thái vi tế là cảnh giới của Bồ-tát. Vi tế nhất trong những sắc thái vi tế là cảnh giới của chư Phật. Cả hai sắc thái sinh diệt này đều do huân tập vô minh mà có, đó là do nhân và duyên. Nhân chính là bất giác, còn duyên chính là cảnh giới do bất giác tạo thành. Nếu nhân diệt thì duyên cũng diệt. Nhân diệt thì những gì không tương ứng với tâm diệt, duyên diệt thì những gì tương ứng với tâm diệt.
Hỏi: Nếu tâm diệt thì sao gọi là tương tục? Mà nếu tương tục thì sao nói diệt hoàn toàn?
Đáp: Nói diệt là chỉ có tâm tướng diệt, không phải tâm thể diệt. Như gió nhờ nước mà [thấy nó] có tướng chuyển động, nếu nước lặng thì [biết] tướng gió đã lặng, không còn chỗ y chỉ. Nếu nước không lặng thì biết tướng gió vẫn tiếp tục chuyển động. Khi gió lặng thì chỉ có tướng chuyển động của gió diệt, không phải nước diệt.[8] Vô minh cũng như vậy, nương vào tâm thể mà có vọng động. Nếu tâm thể mà diệt thì chúng sinh cũng tuyệt diệt, không còn chỗ y chỉ. Nhưng tâm thể thì không bao giờ diệt, nên tâm tướng vẫn tương tục. Chỉ khi nào vô minh diệt thì tâm tướng theo đó cũng diệt, còn tâm thể (hay tâm trí) không bao giờ diệt.
Nói sự sinh diệt liên tục
Lại nữa, có bốn pháp huân tập làm cho pháp nhiễm, pháp tịnh sinh khởi liên tục. Là bốn pháp nào? Một là pháp tịnh, tức là chân như. Hai là nhân của mọi ô nhiễm, đó là vô minh. Ba là vọng tâm, tức là nghiệp thức. Bốn là vọng cảnh, tức là sáu trần.
Huân tập có nghĩa là, ví như y phục ở đời thật ra đâu có mùi hương gì, nhưng khi người ta dùng hương gì để xông ướp thì nó có mùi hương ấy. Ở đây cũng vậy, chân như là pháp thanh tịnh, vốn không có nhiễm ô, chỉ vì vô minh huân tập mà có sắc thái nhiễm ô. Vô minh là pháp nhiễm ô, vốn không có hoạt dụng thanh tịnh, nhưng nhờ chân như huân tập mà có hoạt dụng thanh tịnh.
Nói pháp nhiễm liên tục như thế nào
Thế nào là sự huân tập làm cho pháp nhiễm liên tục không gián đoạn? Là vì dựa vào pháp chân như nên có vô minh, do vì có vô minh làm nhân tố cho các pháp nhiễm ô nên liền huân tập trở lại chân như; vì có sự huân tập này nên có vọng tâm, vì có vọng tâm nên huân tập thêm vô minh. Vì không thấu tỏ pháp chân như nên bất giác dấy khởi hiện ra cảnh giới hư vọng. Vì có cảnh giới vọng cảnh làm duyên cho pháp nhiễm nên lại huân tập vọng tâm, khiến cho vọng tâm ấy dính mắc, tạo vô số nghiệp rồi nhận chịu mọi thứ khổ đau cả thân lẫn tâm.
Sự huân tập cảnh giới hư vọng có hai loại. Là hai loại nào? Một là huân tập làm lớn thêm ý niệm phân biệt. Hai là huân tập làm lớn sự chấp thủ.
Sự huân tập vọng tâm có hai loại. Là hai loại nào? Một là huân tập nghiệp thức căn bản, khiến cho A-la-hán, Duyên giác và hết thảy Bồ-tát phải chịu cái khổ của sinh diệt. Hai là huân tập là lớn thêm phân biệt sự thức, khiến cho phàm phu phải nhận chịu khổ đau do nghiệp ràng buộc.
Sự huân tập vô minh có hai loại. Là hai loại nào? Một là huân tập căn bản, vì nó có khả năng làm thành tựu nghiệp thức. Hai là huân tập làm dấy khởi ngã kiến và ngã ái, vì nó có khả năng làm thành tựu phân biệt sự thức.
Nói pháp tịnh liên tục như thế nào
Thế nào là sự huân tập làm cho pháp tịnh liên tục không gián đoạn? Đó là vì có pháp pháp chân như nên mới có huân tập vô minh. Do sức mạnh nhân duyên huân tập này mà khiến vọng tâm nhàm chán cái khổ sinh tử, ước muốn niềm vui niết-bàn. Do vọng tâm này có nhân duyên nhàm chán và mong cầu nên liền huân tập chân như, [làm cho chúng sinh] tự tin bản tính chân như của mình, biết tâm vọng động, không có cảnh giới [thật] trước mắt, tu tập pháp viễn ly. Vì biết đúng như sự thật rằng cảnh giới trước mắt không có thật nên vận dụng nhiều phương tiện tu tập khác nhau để tùy thuận [theo pháp chân như, chứ] không chấp thủ, không phân biệt [vọng cảnh nữa]. Nhờ sức mạnh huân tập này lâu ngày chày tháng mà vô minh dần tiêu diệt. Vô minh đã diệt thì tâm không còn vọng động, tâm không vọng động thì vọng cảnh diệt theo. Một khi nhân và duyên đều diệt thì tâm tướng cũng không còn. Đó gọi là đạt được niết-bàn, nghiệp dụng tự nhiên thành tựu.
Vọng tâm huân tập có hai loại. Là hai loại nào? Một là huân tập bởi phân biệt sự thức.[9] Hạng người phàm phu và nhị thừa nhờ sự huân tập này mà nhàm chán nỗi khổ sinh tử, rồi tùy theo khả năng của mình mà dần dần hướng đến tuệ giác vô thượng. Hai là huân tập bởi ý,[10] đó là những Bồ-tát phát tâm dũng mãnh nhanh chóng hướng về niết-bàn.
Chân như huân tập cũng có hai loại. Là hai loại nào? Một là huân tập bởi tự thể và tướng trạng. Hai là huân tập bởi hoạt dụng. Huân tập bởi tự thể và tướng trạng là từ vô thỉ đến nay, chân như vốn có đầy đủ bản tính vô lậu và nghiệp dụng không thể nghĩ bàn làm bản chất của cảnh giới. Chính nhờ hai yếu tố này mà chân như thường xuyên huân tập và có sức mạnh làm cho chúng sinh nhàm chán cái khổ của sinh tử, ước muốn cái vui của niết-bàn và tự tin bản thân mình có tâm thể chân như nên phát tâm tu tập.
Hỏi: Nếu nói như vậy thì tất cả chúng sinh đều có chân như và đều huân tập như nhau, vậy tại sao có người tin, có người không tin? Lại còn có vô số sai biệt trước sau nữa? Đáng ra tất cả phải đồng thời tự biết mình có pháp chân như, siêng năng tu tập các phương tiện để thể nhập niết-bàn mới phải?
Đáp: Chân như vốn chỉ có một, mà vô minh thì có vô lượng vô biên, từ xưa đến nay bản chất của nó đã sai khác nên có dày, mỏng bất đồng. Những phiền não sâu dày nhiều hơn cát trong sông Hằng đều nương vào vô minh mà sinh khởi khác nhau. Những phiền não như ngã kiến, ngã ái cũng nương vào vô minh mà sinh khởi khác nhau. Như vậy, tất cả phiền não đều nương vào vô minh mà sinh khởi, trước sau không đồng và có vô lượng sai biệt, chỉ có Đức Phật Như Lai mới biết được.
Lại nữa, pháp của chư Phật có nhân có duyên. Nhân duyên đầy đủ thì mới thành tựu. Ví như tính lửa vốn có ở trong thân cây là nhân tố chính phát sinh ra lửa, nhưng nếu không có người biết và cũng không dùng phương tiện [để lấy lửa ra] mà bảo cây tự bốc cháy là điều không thể. Chúng sinh cũng như vậy, dẫu có nhân tố chính là sức mạnh huân tập [của chân như], nhưng nếu không gặp chư Phật, Bồ-tát hay thiện tri thức để làm duyên thì không thể tự mình đoạn phiền não để vào niết-bàn; và ngược lại, dù có sức mạnh của duyên tố bên ngoài nhưng bên trong pháp tịnh [chân như] chưa có sức mạnh huân tập thì cũng không thể hoàn toàn nhàm chán cái khổ của sinh tử, ước muốn niềm vui của niết-bàn.
Nếu nhân và duyên đầy đủ, nghĩa là tự mình có sức mạnh của sự huân tập, lại được nguyện lực của chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ thì mới có thể phát khởi cái tâm nhàm chán khổ đau, tin có niết-bàn, tu tập căn lành. Nhờ tu tập căn lành thành tựu mà được gặp chư Phật, Bồ-tát mở bày, dạy dỗ, đem lại lợi ích, an vui, mới có thể hướng đến niết-bàn.
Huân tập bởi hoạt dụng [của chân như] chính là sức mạnh ngoại duyên của chúng sinh. Ngoại duyên như vậy có vô lượng thứ, mà lược nói thì có hai. Là hai loại nào? Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng.
Duyên sai biệt là, người này nương nhờ chư Phật và Bồ-tát, từ khi mới phát tâm cầu tuệ giác cho đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian ấy, [được chư Phật, Bồ-tát] nhìn thấy, hoặc nghĩ tưởng, hoặc làm quyến thuộc như cha mẹ, bà con, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn tâm giao, hoặc làm kẻ thù, hoặc thực hiện bốn pháp thu nhiếp lòng người, cho đến tất cả những việc làm khác nữa, nhiều đến vô lượng, cốt để trợ duyên bằng tâm từ bi rộng lớn và thành sức huân tập giúp cho chúng sinh tăng trưởng được căn lành, dù thấy dù nghe đều được lợi ích.
Duyên sai biệt này lại có hai loại. Một là duyên gần, vì mau chóng được giải thoát. Hai là duyên xa, vì còn lâu xa mới được giải thoát. Phân tích thêm nữa thì hai duyên gần và xa lại có thêm hai loại nữa. Một là duyên làm tăng trưởng pháp hành. Hai là duyên giúp tiếp nhận tuệ giác.
Duyên bình đẳng là tất cả chư Phật và Bồ-tát đều nguyện độ thoát hết thảy chúng sanh, huân tập một cách tự nhiên và thường hằng, không lúc nào xả bỏ. Do sức bi trí đồng thể, cho nên tùy theo điều mình thấy nghe mà ứng hiện ra việc làm. Đây là điều [mà trong kinh thường nói] chúng sanh nhờ thiền định mà được bình đẳng thấy chư Phật.
Sự huân tập bởi thể và dụng [của chân như] này lại có thêm hai loại nữa. Là hai loại nào? Một là chưa tương ưng. Tức như phàm phu, nhị thừa, và Bồ-tát mới phát tâm, vì dùng sức huân tập của ý và ý thức, rồi nương vào sức mạnh của niềm tin mà tu hành, cho nên chưa đạt được tâm vô phân biệt để cùng tương ưng với bản thể, chưa đạt được sự tu hành nghiệp tự tại để cùng tương ưng với dụng [của chân như]. Hai là đã tương ưng. Tức như Bồ-tát đã chứng pháp thân, đã đạt được tâm vô phân biệt và cùng tương ưng với trí dụng của chư Phật, cho nên chỉ nương vào pháp lực mà tu hành một cách tự nhiên, huân tập chân như mà diệt trừ vô minh.
Lại nữa, từ xưa đến nay, sự huân tập các pháp nhiễm ô liên tục mãi, cho đến sau khi thành Phật thì mới chấm dứt. Sự huân tập các pháp thanh tịnh thì không gián đoạn cho đến tận vị lai. Điều này có ý nghĩa gì? Là vì pháp chân như nếu được thường xuyên huân tập thì vọng tâm sẽ đoạn diệt, pháp thân sẽ hiển lộ và phát khởi cái dụng huân tập [của nó], cho nên không gián đoạn.
Thể và Tướng vĩ đại của Chân như
Lại nữa, tự thể của chân như nơi hết thảy phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, và chư Phật đều không thêm, không bớt, không phải tối sơ phát sinh, không phải tối hậu đoạn diệt, tuyệt đối thường hằng. Ngay trong bản chất, tự tính vốn đầy đủ mọi công đức. Chính là có đầy đủ các ý nghĩa như trí tuệ vĩ đại sáng chói, bao trùm pháp giới, hiểu biết đúng như sự thật, cái tâm bản thể thanh tịnh, thường lạc ngã tịnh, trong mát, không đổi, tự tại. Đại loại như vậy, đầy đủ mọi phẩm chất của pháp Phật, nhiều hơn cát của sông Hằng, không xa lìa, không đoạn dứt, không khác biệt, không nghĩ bàn, đầy đủ tất cả, không thiếu một nghĩa cỏn con nào, nên gọi là Như Lai Tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai.
Hỏi: Đoạn trước đã nói tự thể của chân như là bình đẳng, xa lìa mọi sắc thái, vì sao giờ lại nói tự thể của nó có nhiều công đức?
Đáp: Dù quả thật nó có những công đức ấy, nhưng chúng không có sắc thái sai biệt, mà cùng một vị như nhau, chỉ một chân như. Nghĩa là thế nào? Là vì không có [chủ thể] phân biệt và xa lìa đối tượng phân biệt, cho nên không có dị biệt. Vậy thì tại sao lại nói những công đức sai biệt trên? Là vì dựa vào nghiệp thức mà biểu hiện sắc thái sinh diệt. Biểu hiện thế nào? Các pháp xưa nay chỉ duy tâm, thật không có phân biệt, nhưng do có vọng tâm mà khởi niệm bất giác nên thấy các cảnh giới, gọi là vô minh. Tâm tính không dấy khởi thì đó chính là trí tuệ vĩ đại sáng soi cùng khắp. Nếu tâm dấy khởi lên cái thấy thì sẽ có cái nó không thấy. Tâm thể thì lìa xa cái thấy, cho nên nó sáng soi cùng khắp pháp giới. Nếu tâm có vọng động thì nhận thức không chính xác, không phải tự tính, không phải thường, lạc, ngã, tịnh, mà là nóng bức, khổ não, suy biến, không được được tự tại, cho đến đầy dẫy những nhiễm ô nhiều hơn cát sông Hằng. Ngược lại, nếu tâm thể không vọng động thì biểu hiện sắc thái công đức thanh tịnh nhiều hơn cát sông Hằng. Nếu tâm thể có sinh khởi và thấy các pháp trước mắt có thể phân biệt thì sẽ có thiếu sót. Như vậy, các pháp thanh tịnh có vô lượng công đức chính là cái tâm duy nhất, lại vô phân biệt, cho nên đầy đủ mọi [mọi đức tính] và được gọi là kho tàng Pháp thân của Như Lai.
Dụng vĩ đại của Chân như
Lại nữa, hoạt dụng của chân như là chư Phật Như Lai khi còn ở địa vị tu nhân, phát khởi tâm từ bi rộng lớn, tu các ba-la-mật, nhiếp hóa chúng sinh, lập thệ nguyện lớn, muốn cứu độ hết thảy chúng sinh, không kỳ hạn số kiếp, tận cùng vị lai, vì xem chúng sinh như chính bản thân mình, nhưng không chấp thủ tướng chúng sinh. Tại sao? Tại vì [các ngài] đã biết đúng như sự thật rằng, hết thảy chúng sinh và bản thân mình đều cùng bản thể chân như bình đẳng, không có sai khác. Với nhận thức như vậy làm trí tuệ phương tiện vĩ đại để diệt trừ vô minh, thấy được pháp thân vốn có của mình mà tự nhiên có được mọi hoạt dụng của hành nghiệp không thể nghĩ bàn, tức cùng đồng đẳng với chân như và phổ biến cùng khắp các cõi, nhưng cũng không có sắc thái hoạt dụng để nắm bắt. Vì sao vậy? Vì chư Phật Như Lai chỉ có pháp thân, trí thân, thuộc về chân lý tuyệt đối chứ không thuộc cảnh giới chân lý tương đối, siêu việt hành vi tạo tác, chỉ vì chúng sinh hễ thấy hay nghe [nói đến Phật] thì được lợi ích cho nên mới nói là hoạt dụng mà thôi.
Hoạt dụng của chân như có hai loại. Là hai loại nào? Một gọi là ứng thân, là loại do phân biệt sự thức mà tâm trí của phàm phu và nhị thừa thấy được. Do không biết [cái được nhìn thấy] là do chuyển thức hình thành, cho nên họ chỉ thấy hình ảnh từ bên ngoài đến, nắm lấy một phần sắc tướng giới hạn mà không bao giờ biết được toàn diện [về thân Phật].
Hai gọi là báo thân, là loại nương vào nghiệp thức mà chư vị Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến địa vị cùng tột nhìn thấy được. Thân này có vô lượng hình sắc, mỗi hình sắc có vô lượng thân tướng, mỗi thân tướng có vô lượng vẻ đẹp. Trú xứ [của thân ấy][11] nương nơi qủa báo, cũng có vô lượng những điều tốt đẹp, trang nghiêm, tùy chỗ thị hiện, tức là [thân Phật] không có giới hạn, không thể cùng tận, siêu việt thân tướng giới hạn, tùy chỗ mà ứng hiện, thường trụ bất diệt. Những công đức như vậy đều do huân tập các hạnh ba-la-mật vô lậu và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu, đầy đủ vô lượng phước tướng an vui, gọi là thân thọ dụng phước báo.
Hơn nữa, [thân Phật] mà phàm phu thấy được là sắc thân thô xấu, tùy theo mỗi loài chúng sinh trong sáu nẻo, mỗi loài thấy mỗi khác, và toàn là sắc thân nhận chịu khổ đau, cho nên gọi là ứng thân.
Lại nữa, [thân Phật] mà hàng Bồ-tát mới phát tâm nhìn thấy được là do tin sâu vào pháp chân như, mà chỉ thấy được một phần, nhưng biết sắc tướng và các việc trang nghiêm thân ấy là không đến, không đi, siêu việt giới hạn, chỉ do tâm hiện, không rời chân như. Tuy nhiên, chư vị Bồ-tát này vẫn còn tự phân biệt [giữa mình với Phật], do chưa đạt đến địa vị hội nhập pháp thân. Khi đạt được tâm thanh tịnh thì những gì thấy được mới vi diệu, diệu của thân ấy trở nên thù thắng hơn, cho đến khi đạt đến địa vị Bồ-tát tận cùng thì mới thấy được trọn vẹn [thân Phật]. Nếu lìa nghiệp thức thì không còn tướng thấy,[12] do vì pháp thân chư Phật không có sắc tướng này kia, siêu việt tướng đối đãi.
Hỏi: Nếu pháp thân của chư Phật lìa mọi sắc tướng thì làm sao có thể biểu hiện sắc tướng?
Đáp: Vì chính pháp thân là bản thể của sắc tướng, nên có thể biểu hiện sắc tướng ấy. Nghĩa là, từ trong bản chất, sắc và tâm vốn không hai. Do vì bản tính của sắc chính là trí, cho nên bản thể của sắc vô hình và gọi là trí thân; do vì bản tính của trí chính là sắc nên gọi là pháp thân. Pháp thân phổ biến cùng khắp nên sắc thân của [chư Phật] không có giới hạn, tùy tâm mà biểu hiện khắp mười phương thế giới, vô lượng Bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi sai khác, nhưng đều không giới hạn, không ngăn ngại nhau. Điều này không phải tâm thức phân biệt có thể biết được, vì đó là ý nghĩa hoạt dụng tự tại của chân như.
Chỉ cách từ sinh diệt hội nhập Chân như
Tiếp theo là chỉ rõ cách thức từ cửa sinh diệt mà thể nhập ngay vào cửa chân như. Đó là quán chiếu sắc và tâm nơi thân năm uẩn, cùng với sáu trần cảnh, rốt ráo đều không phân biệt. Do vì tâm không có hình tướng, cho nên tìm kiếm khắp mười phương cuối cùng cũng không thể nắm bắt. Giống như kẻ lạc đường bảo Đông là Tây, nhưng sự thật thì phương hướng không thay đổi [theo cách nhận lầm ấy]. Chúng sinh cũng như vậy, vì bị vô minh mê hoặc cho nên mới nói tâm thể là phân biệt, nhưng sự thật thì tâm thể không lay động [theo nhận thức phân biệt ấy]. Nếu có khả năng quán chiếu và biết tâm thể siêu việt phân biệt thì ngay đó đạt được tùy thuận thể nhập vào cửa chân như.
3.2. Sửa chữa chấp thủ sai lầm
Sửa chữa chấp thủ sai lầm là tất cả mọi sự chấp thủ sai lầm đều có nguồn gốc từ quan niệm về bản ngã. Nếu buông bỏ bản ngã thì không còn chấp thủ sai lầm nào nữa. Có hai quan niệm về bản ngã. Là hai loại nào? Một là quan niệm về bản ngã con người, hai là bản ngã các pháp.
a. Sửa chữa sai lầm về chấp ngã[13]
Nhân ngã kiến là, với chúng sinh phàm phu mà nói thì có năm loại. Là năm loại nào? Một là, [chúng sinh phàm phu] nghe trong kinh điển nói pháp thân của Như Lai hoàn toàn vắng lặng, giống như hư không, nhưng không biết rằng [cách nói này] là nhằm đả phá sự chấp trước, nên liền cho rằng hư không là đặc tính của Như Lai. Sửa chữa quan niệm sai lầm này thế nào? Cần nói rõ tướng hư không là pháp hư vọng, thể của nó là giả, không thật, là do đối đãi với vật chất mà có, là cái sắc tướng có thể thấy được khiến tâm sinh diệt. Hết thảy sắc pháp vốn là tâm, ngoài tâm thật sự không có gì. Nếu vật chất đã không thì cái tướng hư không cũng không. Cho nên, mọi cảnh giới đều do tâm vọng khởi mà có, nếu tâm xa lìa vọng động thì mọi cảnh giới đều diệt, chỉ còn duy nhất chân tâm phổ biến cùng khắp. Đây là ý nghĩa tuyệt đối về tuệ giác rộng lớn của Như Lai, chứ không phải trống rỗng như hư không.
Hai là, [chúng sinh phàm phu] nghe trong kinh điển nói các pháp ở thế gian đều là không, cho đến các pháp niết-bàn, chân như cũng đều là không, từ trong bản chất vốn đã không, xa lìa mọi hình tướng, nhưng không biết rằng [lời kinh này] là đả phá sự chấp trước, nên ngay liền cho rằng bản chất của chân như, niết-bàn cũng chỉ là không. Sửa chữa quan niệm này bằng cách nào? Cần nói rõ pháp thân chân như bản thể chẳng phải không mà có đầy đủ vô lượng công đức.
Ba là, [chúng sinh phàm phu] nghe trong kinh điển nói Như Lai tạng hàm chứa đầy đủ mọi công đức, không hề tăng giảm, nhưng không hiểu được lời kinh này nên liền cho rằng Như Lai tạng có những đặc tính sai biệt giữa thân và tâm. Sửa chữa quan niệm này bằng cách nào? Ý nghĩa được nói như vậy là dựa vào mặt chân như của tâm, còn nói về đặc tính sai biệt là nói theo mặt nhân duyên sinh diệt nhiễm ô của tâm.
Bốn là, [chúng sinh phàm phu] nghe trong kinh điển nói hết thảy các pháp sinh tử nhiễm ô trong thế gian đều do Như Lai Tạng mà có, hết thảy các pháp không rời chân như. Vì không hiểu được điều này nên cho rằng tự thể của Như Lai Tạng có đủ hết thảy các pháp sinh tử nhiễm ô. Sửa chữa bằng cách nào? Cần giải thích rằng, từ xưa đến nay, [ngay trong bản chất] Như Lai Tạng vốn chỉ có những công đức thanh tịnh nhiều hơn cát sông Hằng, không tách rời, không gián đoạn, không khác với chân như; còn những pháp phiền não nhiễm ô cũng nhiều hơn cát sông Hằng chỉ có một cách hư dối, tự tính vốn không, từ xưa đến nay chưa từng tương ưng với Như Lai Tạng. Nếu tự thể của Như Lai Tạng [thật sự] có pháp hư dối ấy mà khiến chúng vĩnh viễn dứt trừ để hội nhập với nó là điều không thể được vậy!
Năm là, [chúng sinh phàm phu] nghe trong kinh điển nói do Như Lai Tạng mà có sinh tử, do Như Lại Tạng mà được niết-bàn. Do không hiểu được điều này nên cho rằng chúng sinh xuất hiện đầu tiên. Do thấy có cái đầu tiên nên lại cho rằng niết-bàn mà Như Lai chứng được cuối cùng rồi cũng chấm dứt và trở lại làm chúng sinh. Sửa chữa quan niệm này thế nào? Cần giải thích rằng, Như Lai Tạng không có cái khởi đầu, tướng trạng của vô minh cũng không có khởi đầu. Nếu cho rằng ngoài ba cõi còn có chúng sinh khởi đầu thì đó là học thuyết của ngoại đạo. Lại nữa, Như Lai Tạng không có kết thúc, niết-bàn mà chư Phật chứng được tương ưng với Như Lại Tạng nên cũng không có kết thúc.
b. Sửa chữa sai lầm về chấp pháp[14]
Pháp ngã kiến là do hàng nhị thừa căn cơ chậm lụt, cho nên Như Lai chỉ nói về nhân vô ngã. Do vì nói chưa rốt ráo, nên [hàng nhị thừa] thấy có pháp sinh diệt của năm uẩn mà [sinh ra tâm lý] sợ sinh tử và nắm bắt một cách hư vọng về niết-bàn. Sửa chữa sai lầm này thế nào? Cần giải thích rằng, tự tính của năm uẩn vốn không sinh nên chẳng diệt, bản chất là niết-bàn.
c. Sửa chữa triệt để mọi sự ngộ nhận
Hơn nữa, để xa lìa vọng chấp hoàn toàn cần phản nhận thức rằng pháp nhiễm ô hay pháp thanh tịnh đều phụ thuộc lẫn nhau, chúng không có đặc tính riêng biệt gì để mà nói. Cho nên, hết thảy các pháp từ ngay trong bản chất không phải vật lý, không phải tâm lý, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, tuyệt đối không thể diễn tả. Mà nếu có diễn tả thì nên biết rằng đó là do Như Lai khéo léo sử dụng phương tiện vay mượn ngôn ngữ để hướng dẫn chúng sinh, nhưng ý hướng của Ngài đều nhắm đến xa lìa vọng niệm phân biệt để quay về chân như, bởi lẽ do vọng niệm phân biết tất cả các pháp nên khiến tâm sinh diệt, không thể nhập được trí chân thật.
3.3. Phân biệt tướng trạng phát tâm
Phân biệt tướng trạng phát tâm là nói về cảnh giới mà tất cả chư Phật đã chứng được, tất cả chư vị Bồ-tát đang phát tâm tu tập để nhanh chóng đi đến đó. Nói đơn giản thì sự phát tâm có ba trường hợp. Là ba trường hợp nào? Một là phát tâm do tin, hai là phát tâm do hiểu và làm theo, ba là phát tâm do chứng.
a. Phát tâm do tin[15]
Phát tâm do tin là những người nào, tu tập ra sao mà thành tựu được niềm tin ấy, để rồi đưa đến sự phát tâm? Đó là những người thuộc nhóm bất định.[16] Những người này nhờ sức mạnh huân tập căn lành mà có niềm tin vào nghiệp và quả báo của nghiệp, từ đó tu tập mười điều thiện, chán sự thống khổ sinh tử, ước mong tuệ giác tối thượng, được gặp chư Phật, đích thân phụng sự và tu tập với lòng tin tưởng. Trải qua một vạn kiếp thì niềm tin vững chãi, từ đó chư Phật và Bồ-tát mới dạy cho phát tâm, hoặc vì lòng đại bi mà tự phát tâm, hoặc do chính pháp sắp diệt, vì muốn hộ pháp mà tự phát tâm. Những người với niềm tin vững chãi như vậy mà phát tâm thì được vào nhóm chính định, tuyệt đối không còn thoái lui, gọi là người ở trong dòng giống Như Lai, tương ưng với nhân tố chính yếu.
Có những chúng sinh căn lành ít ỏi, từ xưa đến nay phiền não sâu dày, tuy được gặp Phật, cũng được phụng sự, nhưng chỉ gieo trồng hạt giống trời người, hoặc hạt giống nhị thừa, giả sử có cầu đại thừa đi nữa thì căn cơ cũng không cố định, khi tiến khi lùi. Hoặc có người phụng sự chư Phật nhưng chưa đến một vạn kiếp, trong khoảng thời gian ấy nếu gặp được duyên [lành] thì cũng có phát tâm, chẳng hạn như thấy được sắc tướng của Phật mà phát tâm, hoặc nhờ cúng dường chúng tăng mà phát tâm, hoặc nhờ chư vị nhị thừa dạy cho phát tâm, hoặc học tập nơi người khác mà phát tâm. Những người phát tâm như vậy đều thuộc nhóm bất định, nếu gặp nhân duyên xấu thì hoặc sẽ thoái thất hoặc sẽ rơi vào giai vị nhị thừa.
Lại nữa, người phát tâm với niềm tin vững chãi là phát những tâm gì? Lược nói thì có ba loại. Là ba loại nào? Một là tâm ngay thẳng, là giữ chính niệm với pháp chân như. Hai là tâm sâu xa, vì có xu hướng tập hợp mọi hạnh lành. Ba là tâm đại bi, vì ước muốn cứu vớt thống khổ cho mọi chúng sinh.
Hỏi: đoạn trước đã nói, [chân như] là pháp tính đồng nhất, thật tử không hai, vậy tại sao không chỉ nhớ nghĩ chân như mà còn phải học thêm các hạnh lành?
Đáp: ví như khối ngọc ma-ni lớn thể chất trong suốt nhưng bị khoáng chất làm bẩn, nếu chỉ nhớ nghĩ đến thể chất của ngọc mà không chịu tìm mọi cách để mài dũa thì không bao giờ được trong suốt. Pháp chân như của chúng sinh cũng như vậy, bản thể rỗng rang trong sáng nhưng bị vô lượng phiền não làm cho vấy bẩn, nếu chỉ nhớ nghĩ chân như mà không tìm mọi cách huân tu thì cũng không được trong sáng. Vô lượng phiền não làm bẩn tất cả các pháp thì phải tu tập tất cả hạnh lành để mà đối trị. Nếu người nào tu tập tất cả pháp lành thì tự nhiên quay lại thuận theo pháp chân như.
Phương tiện tu tập, lược nói thì có bốn. Là bốn cách nào? Một là thực hành phương tiện căn bản, là quán chiếu tự tính của tất cả các pháp vốn vô sinh, xa lìa nhận thức sai lầm, không ở trong sinh tử. Lại quán tất cả các pháp đều là nhân duyên hòa hợp, nghiệp nhân quả không bao giờ mất, khởi tâm đại bi, tu tập mọi phước đức để nhiếp hóa chúng sinh chứ không ở trong niết-bàn. [Không ở trong sinh tử cũng không ở trong niết-bàn] là để tùy thuận với pháp tính vô trú.
Hai là phương tiện ngăn ngừa, là hổ thẹn mà sám hối, đình chỉ tất cả mọi việc xấu không cho phát triển, đó là thuận theo pháp tính xa lìa mọi lỗi lầm.
Ba là phương tiện phát khởi và nuôi lớn căn lành, là siêng năng phụng sự, lễ bái Tam bảo, tán dương, tùy hỷ và khuyến thỉnh chư Phật. Nhờ kính mến Tam bảo với cái tâm thuần hậu như vậy cho nên niềm tin lớn mạnh thêm lên, đưa đến ý chí mong cầu tuệ giác tối thượng, lại nhờ sức gia hộ của Tam bảo mà tội chướng tiêu trừ, căn lành thêm lớn. Đó là tùy thuận theo pháp tính xa lìa mọi chướng ngại [của chân như].
Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, là phát nguyện cho đến tận cùng đời sau, hóa độ hết thảy chúng sinh không còn sót một ai, đều khiến cho mọi loài đều đạt được niết-bàn hoàn toàn. Đó là tùy thuận theo pháp tính không đoạn tuyệt [của chân như], pháp tính rộng lớn, trùm khắp mọi chúng sinh, bình đẳng không khác, không phân biệt đó đây, tuyệt đối vắng lặng [của chân như].
Chư vị Bồ-tát phát cái tâm này thì được thấy ít phần pháp thân. Do thấy được pháp thân nên tùy theo nguyện lực của mình mà biểu hiện tám việc lợi ích cho chúng sinh. Đó là, từ trời Đâu-suất giáng trần, vào thai, ở trong thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập niết-bàn. Nhưng chư vị Bồ-tát này chưa được gọi là Bồ-tát pháp thân, do vì nghiệp hữu lậu đã gây tạo từ vô lượng kiếp trước đến nay vẫn chưa đoạn trừ hết, cho nên sinh ra ở đâu thì cái nghiệp vẫn theo làm cho khổ chút xíu. Tuy nhiên, do có sức mạnh tự tại của đại nguyện nên các ngài không phải là người bị nghiệp trói buộc. Trong khế kinh có nói thảng hoặc các ngài bị thoái lui và rơi vào nẻo ác, nhưng thật ra các ngài không còn thoái lui nữa; [trong khế kinh nói như vậy] là chỉ vì chư vị Bồ-tát mới học chưa vào được nhóm chính định mà lười biếng, [Phật nói như vậy để họ] sợ hãi mà nỗ lực tinh tiến. Vả lại, chư vị Bồ-tát này sau khi phát tâm thì hết hẳn sự yếu hèn, vĩnh viễn không còn sợ rơi vào giai vị nhị thừa, cho dù nghe nói phải trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp nỗ lực tu hành khó khăn mới đạt được niết-bàn thì cũng không hề khiếp sợ, vì đã tin tưởng và rõ biết tất cả các pháp xưa nay từ trong bản chất đã là niết-bàn rồi.
b. Phát tâm do biết và làm theo[17]
Phát tâm do hiểu và làm theo, nên biết là thù thắng hơn nữa. Bởi vì, Bồ-tát từ khi mới phát tâm có niềm tin chân chính trở đi, khi một a-tăng-kỳ kiếp đầu tiên sắp hết, đối với pháp chân như, họ đã tin hiểu sâu xa và tu tập xa lìa mọi hình danh sắc tướng. Nhờ vậy, họ biết bản thể của pháp tính là không xan tham, cho nên họ theo đó mà thực hành bố thí ba-la-mật; biết bản thể của pháp tính là không ô nhiễm, tách rời lỗi lầm năm dục, cho nên họ theo đó mà thực hành trì giới ba-la-mật; biết bản thể của pháp tính là không đau khổ, xa lìa nóng giận não hại, cho nên họ theo đó mà thực hành nhẫn nhục ba-la-mật; biết bản thể của pháp tính lìa tướng thân, tâm, không lười biếng, cho nên họ theo đó mà thực hành tinh tiến ba-la-mật; biết bản thể của pháp tinh là thường định, không vọng động, cho nên họ theo đó mà thực hành thiền định ba-la-mật; biết bản thể của pháp tính là trong sáng, xa lìa vô minh, cho nên họ theo đó mà thực hành trí tuệ ba-la-mật.
c. Phát tâm do chứng ngộ
Phát tâm do chứng ngộ là chư vị Bồ-tát từ giai vị Tịnh tâm cho đến giai vị Cứu cánh. Họ chứng ngộ cảnh giới gì? Chứng chân như. Nhưng dựa vào chuyển thức mà nói là cảnh giới, chứ thật ra, sự chứng ngộ ở đây không có cảnh giới, chỉ có trí chân như mà thôi, và gọi là pháp thân. Chư vị Bồ-tát này chỉ trong khoảnh khắc có thể đi khắp mười phương thế giới cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân với mục đích duy nhất là mở đường chỉ lối, làm lợi lạc cho chúng sinh mà không cần đến ngôn ngữ văn tự. Vì những hạng người yếu hèn, chư vị Bồ-tát thị hiện thành bậc Chính giác một cách mau lẹ, vượt cấp các giai vị tu chứng. Vì những hạng người lười biếng, coi thường mà thị hiện nói rằng: “Ta phải trải qua vô lượng vô biên kiếp tu hành mới thành Phật-đà.” Các ngài thị hiện vô số cách như vậy, không thể nghĩ bàn, nhưng thật ra căn cơ chủng tính của chư vị Bồ-tát là như nhau, phát tâm như nhau, chứng ngộ như nhau, không có việc vượt cấp các giai vị tu tập, vì hết thảy chư Bồ-tát đều trải quả ba a-tăng-kỳ kiếp tu hanh. Chỉ vì chúng sinh và thế giới chẳng đồng, điều được thấy, được nghe, căn cơ, tính tình, ước muôn… khác nhau, cho nên sự thị hiện tu hành cũng có khác nhau.
Hơn nữa, sắc thái phát tâm của chư vị Bồ-tát này có ba sắc thái rất vi tế. Là ba sắc thái nào? Một là tâm chân thật, vì không còn phân biệt. Hai là tâm phương tiện, vận hành cùng khắp một cách tự nhiên làm lợi ích cho chúng sinh. Ba là tâm nghiệp thức, sinh diệt một cách vi tế. Lại nữa, chư vị Bồ-tát này một khi công đức đã thành tựu viên mãn thì biểu hiện thân cao lớn trong tất cả thế gian nơi cõi Sắc cứu cánh. Đó chính là tuệ giác mà chỉ trong một niệm tương ưng đã rủ sạch vô minh, gọi là Nhất thiết chủng trí, tự nhiên có nghiệp dụng không thể nghĩ bàn, biến hiện cùng khắp mười phương làm lợi ích cho chúng sinh.
Hỏi: Hư không vô biên cho nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên cho nên chúng sinh vô biên. Chúng sinh vô biên cho nên tâm hành sai biệt cũng vô biên. Cảnh giới như vậy là không có giới hạn, khó biết, khó hiểu. Nếu vô minh chấm dứt thì không có tâm tưởng, làm sao rõ biết được để mà gọi là Nhất thiết chủng trí?
Đáp: Mọi cảnh giới vốn từ tâm thể, tách rời vọng tưởng phân biệt. Do vì chúng sinh thấy cảnh giới không chính xác cho nên tâm mới có phân biệt giới hạn. Do vọng tưởng phân biệt khởi lên không chính xác, không tương xứng với pháp tính cho nên không thể biết rõ tất cả. Chư Phật Như Lai thì không có cái thấy vọng tưởng phân biệt ấy, [mà chỉ có cái thấy] phổ biến cùng khắp bằng tâm chân thật, tức là bản tính của mọi pháp, tự thể soi sáng tất cả các pháp hư vọng, có diệu dụng của tuệ giác vĩ đại nên biểu hiện vô lượng phương tiện, tùy theo các loài chúng sinh cần [những hình thức gì] để hiểu được thì [chư Phật] đều [thị hiện ra hình thức đó] để mởi bày, chỉ dạy mọi pháp nghĩa, vì vậy mà gọi là Nhất thiết chủng trí.
Lại hỏi: Nếu chư Phật có nghiệp dụng tự nhiên, có khả năng biểu hiện khắp nơi làm lợi ích cho chúng sinh, [thì đúng ra] tất cả chúng sinh đều thấy được thân Phật, thấy được thần thông biến hóa của Ngài, nghe được tiếng nói của Ngài và ai cũng được lợi ích. Nhưng tại sao ở thế gian này phần nhiều không ai được thấy nghe gì hết?
Đáp: Pháp thân của chư Phật Như Lai hoàn toàn bình đẳng, phổ biến cùng khắp, không cần tác ý, cho nên gọi là tự nhiên, và thị hiện theo tâm của chúng sinh. Tâm của chúng sinh giống như tấm gương, nếu tấm gương bị bẩn thì không phản chiếu hình ảnh. Cũng vậy, nếu tâm của chúng sinh bị nhiễm ô thì pháp thân không biểu hiện.
4. Cách tu tập
Đã trình bày xong phần giải thích, tiếp theo trình bày phần tín tâm tu hành.
Trong phần tín tâm tu hành sẽ nói về cách tu tập của những người chưa vào được nhóm chính định.
4.1. Tin cái gì và tu tập thế nào?
a. Tâm tin tưởng
Tâm tin tưởng vào những gì và tu tập thế nào? Nói vắn tắt, tâm tin tưởng vào bốn việc. Là bốn việc nào? Một là, niềm tin có gốc rễ. Đó là ưa thích nhớ nghĩ pháp chân như. Hai là, tin Phật có vô lượng công đức, thường nhớ nghĩ và ước muốn được thân cận, cung kính, cúng dường để khơi dậy căn lành, mong được Nhất thiết trí. Ba là, tin pháp có lợi ích lớn lao, thường nhớ nghĩ tu tập các pháp ba-la-mật. Bốn là, tin tăng có khả năng tu tập chân chính, thực hành tự lợi lợi tha, thường ưa gần gũi chư vị Bồ-tát để cầu học sự tu tập đúng như sự thật.
Có năm cách tu tập để thành tựu tâm tin tưởng này. Là năm cách nào? Một là bố thí, hai là giữ giới, ba là nhẫn nhục, bốn là tinh tiến, năm là chỉ và quán.
b. Cách tu tập
b.1. Thực hành bố thí
Thực hành bố thí như thế nào? Là nếu thấy ai đến cầu xin thứ gì thì tùy theo khả năng của mình có được tài vật gì thì cho họ thứ đó, mục đích là để tự xả bỏ tính xan tham của mình và làm cho người kia hoan hỷ. Nếu thấy ai bị hoạn nạn, lo lắng, sợ hãi, hiểm nguy bức bách thì theo khả năng của mình mà đem đến cho họ sự không sợ hãi. Nếu có ai đến cầu học Phật pháp thì tùy theo khả năng của mình mà khéo léo giải thích cho họ nhưng không phải vì tham cầu danh lợi hay sự cung kính mà chỉ nghĩ đến hạnh nguyện tự lợi lợi tha để cùng hướng đến quả vị bồ-đề.
b.2. Trì giới
Tu tập giữ giới như thế nào? Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói đâm thọc, không nói lời thô ác, không nói dối, không nói thêu dệt, xa lìa tham lam, ganh ghét, gian dối, dua nịnh, sân hận, tà kiến. Nếu là người xuất gia thì phải điều phục và đoạn trừ phiền não, tránh xa chốn ồn ào, thường ở chỗ vắng lặng, tu tập các hạnh đầu-đà như ít muốn, biết đủ… cho đến, thấy lỗi nhỏ cũng sinh lòng lo sợ, hổ thẹn, ăn năn, sám hối, không được coi thường giới cấm đức Như Lai đã chế định. Phải giữ giới pháp để tránh sự cơ hiềm, tức là không để chúng sinh vướng vào tội lỗi một cách vô lối.
b.3. Nhẫn nhục
Tu hạnh nhẫn nhục thế nào? Đó là cần phải nhẫn chịu sự quấy rối của người khác, không ôm lòng báo thù; cũng phải nhẫn chịu tám ngọn gió đời dù cho được hay mất, khen hay chê, tán dương hay chỉ trích, hạnh phúc hay khổ đau.
b.4. Tinh tiến
Tu tập siêng năng thế nào? Đó là đối với những việc thiện lành thì lòng không được biếng nhác, thoái lui mà phải lập chí kiên cường, diệt trừ thói yếu đuối hèn nhát. Phải nhớ rằng từ quá khứ xa xôi đến nay ta đã từng chịu biết bao thống khổ cả thân và tâm mà chẳng lợi ích gì cả, cho nên nay phải nỗ lực tu tập các công đức để tự lợi lợi tha và xia lìa mọi thống khổ.
Hơn nữa, dù một người tu tập với niềm tin vững chãi, nhưng do vì đời trước đã gây tạo nhiều tội ác, nghiệp chướng nặng nề, bị tà ma quỷ quái quấy phá, hoặc bị việc đời đa đoan ràng buộc, kéo lôi, hoặc bị bệnh tật hành hạ khổ sở… bị nhiều chướng duyên trắc trở như vậy thì phải nỗ lực siêng năng, ngày đêm sáu buổi lễ Phật thành tâm sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng về đạo bồ-đề. Thường xuyên như vậy không dừng nghỉ, không bỏ thì sẽ giải trừ được chướng duyên, căn lành thêm lớn.
b.5. Thiền định
Tu tập thiền chỉ và thiền quán thế nào? Chỉ nghĩa là dừng lại với tất cả cảnh giới, tùy thuận với pháp quán śamatha. Quán nghĩa là quán sát nhân duyên sinh diệt, tùy thuận pháp quán vipaśyanā. Thế nào là tùy thuận? Nghĩa là tu tập cả chỉ và quán dần dần, không tách rời nhau, cả hai cùng có mặt.
– Thiền chỉ
Người tu tập thiền chỉ phải ở nơi thanh vắng, ngồi thẳng, giữ chính niệm, không nghĩ đến hơi thở, không nghĩ đến hình sắc, không nghĩ đến cái không, không nghĩ đến đất, nước, lửa, gió… cho đến không nghĩ đến thấy, nghe, hay, biết. Tất cả mọi ý nghĩ, hễ có ý nghĩ là diệt trừ liền, diệt luôn cái ý nghĩ diệt trừ, vì tất cả các pháp xưa nay vốn không hình tướng, niệm niệm chẳng sinh, niệm niệm chẳng diệt. Đừng nhớ nghĩ cảnh giới ngoài tâm, sau đó dùng tâm diệt trừ tâm. Nếu tâm rong ruỗi thì tức khắc dừng lại, đưa về chính niệm. Chính niệm ở đây là chỉ biết có tâm, không có cảnh giới bên ngoài, mà tâm này cũng không có tự tướng, mỗi niệm mỗi niệm đều không thể nắm bắt được.
Nếu từ chỗ ngồi muốn đứng dậy đi, đứng hay làm việc gì thì lúc nào cũng thường duy trì chính niệm bằng mọi phương cách để quán sát như trên. Thực tập mãi như vậy sẽ dần thuần thục, tâm sẽ đứng yên. Tâm đã đứng yên rồi thì dần trở nên nhạy bén và tùy thuận nhập vào chính định chân như, phiền não thâm sâu sẽ được điều phục, tín tâm càng tăng trưởng, nhanh chóng thành tựu bất thoái. Chỉ trừ những người hoài nghi, không tin, phỉ báng, tội nặng, nghiệp chướng, ngã mạn, lười biếng… những người như vậy thì khổng thể hội nhập [chính định chân như].
Hơn nữa, nhờ chính định chân như mà biết được pháp giới đồng nhất, nghĩa là pháp thân của chư Phật và thân của chúng sinh bình đẳng như nhau, chẳng phải hai, gọi là chính định nhất hạnh. Nên biết, chân như là chính định căn bản. Nếu người tu tập [theo chính định này] thì dần dần phát sinh vô số chính định.
– Ma chướng
Có những người không có sức mạnh của căn lành nên bị sự mê hoặc, quấy phá của tà ma, ngoại đạo, quỷ thần. Trong khi ngồi thiền, chúng hiện ra đủ thứ thân hình dễ sợ, hoặc hiện ra thân hình nam nữ xinh đẹp… [lúc đó] chỉ nhớ nghĩ [mọi thứ đều do] tâm thì tất cả cảnh giới ấy đều tan biến, không thể nào quấy phá được. Có khi chúng hiện ra hình dáng chư thiên, bồ-tát, cũng hiện ra thân tướng Như Lai đầy đủ tướng hảo, chúng cũng nói về đà-la-ni, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ, cũng nói về bình đẳng, tính không, vô tướng, vô nguyện, không oán thù, không thân thích, không nhân, không quả, hoàn toàn không có gì và cho đó là niết-bàn. Chúng cũng làm cho người tu thiền biết được mọi việc kiếp trước của mình, cũng biết mọi việc tương lai, biết được tâm người khác, lại có trí tuệ biện tài vô ngại, làm cho những người tu thiền tham đắm, dính mắc vào mọi việc danh lợi của thế gian.
Hơn nữa, [các thế lực ma binh] cũng khiến cho người tu thiền hay giận hay vui, tính khí thất thường, hoặc có khi đa sầu đa cảm, hoặc có khi ham ngủ, hay đau, lòng sinh biếng nhác, hoặc có khi bỗng nhiên siêng năng rồi sau buông thả, bỏ bê, lại sinh lòng bất tín, đa nghi, lo nhiều; hoặc lại bỏ trôi những việc căn bản, cao thượng mà làm những việc linh tinh; hoặc bị bao việc đời lôi kéo, buộc ràng. [Ma binh đôi khi] cũng làm cho người tu thiền đạt được phần nào tương tự thiền định, nhưng đều là thiền định của ngoại đạo, không phải thiền định chân thật; hoặc có làm cho người tu thiền an trú trong thiền định một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn uống những thức ăn tự nhiên và thơm ngon, thân tâm an vui, không đói khát, khiến cho người này mê đắm; chúng cũng làm cho những người này ăn uống không chừng mực, khi nhiều, khi ít, khiến nhan sắc biến đổi.
Do những sự việc trên đây, cho nên, người tu hành phải thường xuyên dùng trí tuệ để quán sát, chớ để tâm thức của mình rơi vào lưới tà ma. Phải siêng năng giữ chính niệm, đừng để chấp thủ, đừng để dính mắc thì mới có thể xa lìa những nghiệp chướng ấy.
– Chính định và tà định
Phải biết rằng, thiền định của ngoại đạo đều không rời khỏi tâm lý ngã kiến, ngã ái và ngã mạn, vì còn tham đắm danh lợi và sự cung kính của thế gian. Chính định chân như không còn dính mắc nhận thức, không dính mắc sự đạt được, cho đến khi ra khỏi thiền định rồi cũng không biếng nhác, mọi phiền não dần dần giảm bớt. Nếu hàng phàm phu không tu tập pháp thiền định chân như mà được thể nhập vào dòng giống Như Lai là điều vô lý vậy. Tu tập các loại thiền định thế gian thì phần nhiều sinh lòng dính mắc, vì thiền định ấy bắt nguồn từ ngã kiến, lệ thuộc ba cõi, đồng với ngoại đạo. Nếu rời xa sự bảo bọc của các bậc thiện tri thức thì dễ sinh thấy biết của ngoại đạo.
– Hiệu quả của chính định
Lại nữa, chuyên tâm tinh cần tu tập thiền định chân như thì ngay đời này được mười điều lợi ích. Là mười điều nào? Một là thường được sự hộ niệm của chư Phật và Bồ-tát khắp cả mười phương. Hai là không bị các loài tà ma ác quỷ làm cho sợ hãi. Ba là không bị 95 chủ thuyết ngoại đạo quỷ thần mê hoặc. Bốn là xa lìa hành vi phỉ báng chính pháp sâu xa, tội năng nghiệp chướng dần dần giảm thiểu. Năm là diệt trừ mọi nghi ngờ và những ý nghĩ xấu. Sáu là đối với cảnh giới của Như Lai thì niềm tin được tăng trưởng. Bảy là xa rời những buồn lo, trong cõi tử sinh mà dũng mãnh chứ không khiếp nhược. Tám là tâm tính nhu hòa, xả bỏ kiêu ngạo, không bị người khác làm cho bực tức. Chín là dù chưa được định, nhưng ở đâu và lúc nào cũng giảm bớt phiền não, không đam mê việc đời. Mười là nếu đạt được định thì không bị ngoại duyên và mọi tiếng ồn làm cho kinh động.
– Thiền quán
Lại nữa, nếu người nào chỉ tu tập thiền chỉ thì sẽ làm cho tâm trí lờ đờ, hoặc sinh lười biếng, không thích làm việc thiện, rời xa tâm đại bi, cho nên phải tu tập thiền quán.
Tu tập thiền quán là quán chiếu tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều vô thường, phút chốc đã biến đổi, tan hoại, mọi hiện tượng tâm lý luôn luôn sinh diệt, và vì vậy cho nên đau khổ. Phải quán chiếu rằng, những gì nhớ nghĩ về quá thì thấp thoáng như chiêm bao, những gì nhớ nghĩ về hiện tại thì như tia điện chớp, những gì nhớ nghĩ về tương lai thì nổi lên như mây nổi. Phải quán chiếu rằng mọi thân thể ở thế gian này đều bất tịnh, đủ thứ dơ bẩn, không một chút gì đáng ưa thích.
– Quán đại bi
Phải quán niệm như vầy: “Hết thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay đều do huân tập bởi vô minh cho nên mới có tâm sinh diệt, đã từng phải chịu biết bao thống khổ cả thân lẫn tâm; hiện nay cũng đang có vô lượng những điều bức bách; tương lai cũng bị đau khổ không biết chừng nào. [Vô vàn thống khổ như vậy] khó trút bỏ, khó tách rời mà chẳng hay chẳng biết. Chúng sinh như vậy thật đáng thương thay!”
– Quán đại nguyện
Suy nghĩ như vậy rồi liền dũng mãnh lập thệ nguyện lớn: “Nguyện cho lòng mình buông bỏ mọi phân biệt, trải khắp mười phương tu hành mọi điều lành, làm mọi điều phước đức, cho đến tận vị lai, dùng vô lượng phương tiện để cứu vớt mọi chúng sinh khổ não và làm cho họ đạt được niềm vui bậc nhất của niết-bàn.”
– Quán tinh tiến
Vì lập thệ nguyện như vậy, cho nên bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, hễ có việc thiện lành đều tùy theo khả năng của mình mà tu mà học, lòng không biếng nhác. , chỉ trừ lúc ngồi thiền.
– Chỉ quán song tu
Chỉ trừ lúc ngồi thì chuyên tâm tu tập thiền chỉ, còn những lúc khác thì phải quán sát việc gì nên làm việc gì không nên làm. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi dậy đều phải tu tập chỉ quán cùng lúc. Nghĩa là, tuy nhớ các pháp tự tính vốn chẳng sinh, nhưng lại nhớ ngay rằng nghiệp thiện ác do nhân duyên hòa hợp [đưa đến] quả báo khổ, vui không bao giờ sai, không bao giờ mất; tuy nhớ nghiệp báo thiện ác do nhân duyên, nhưng cũng nhớ ngay rằng bản chất [của các pháp ấy] không thể nắm bắt được.
– Đối trị chỉ quán
Nếu tu tập thiền chỉ thì đối trị được sự chấp trước thế gian của phàm phu, lại có thể khắc phục được nhận thức khiếp nhược của hàng nhị thừa. Nếu tu tập thiền quán thì đối trị được cái lỗi tâm nhỏ hẹp không khởi tâm đại bi của hàng nhị thừa và xa lìa cái lỗi không tu tập căn lành của hàng phàm phu. Vì ý nghĩa này cho nên cả hai pháp tu chỉ và quán luôn hỗ tương nhau mà thành tựu, không thể tách rời. Nếu chỉ và quán không đầy đủ thì không thể hội nhập tuệ giác bồ-đề.
Lại nữa, những người mới tu học pháp chỉ quán này mong cầu đạt được chính tín, [vì] lòng họ yếu đuối, lo sợ. Sống ở thế giới sa-bà này nên họ sợ không thường gặp được chư Phật để đích thân phụng sự cúng dường, sợ tín tâm khó được thành tựu, ý muốn thoái lui, thì phải biết rằng đức Như Lai có phương tiện thù thắng để giữ gìn tín tâm [cho chúng sinh]. Đó là lấy nhân duyên chuyên tâm niệm Phật để tùy nguyện được sinh về cõi Phật ở thế giới khác, thường được thấy Phật, vĩnh viễn thoát khỏi đường ác. Như trong khế kinh có dạy, nếu người nào chuyên tâm niệm Phật A-di-đà ở thế giới Tây phương Cực lạc, bao nhiêu việc lành đã tu tập được đều hồi hướng cầu nguyện vãng sinh về thế giới ấy thì liền được vãng sinh. [Vãng sinh về đó rồi thì] thường được thấy Phật, trọn không còn thoái chuyển. Nếu biết quán chiếu pháp thân chân như của Đức Phật A-di-đà, thường siêng năng tu tập thì chắc chắn được vãng sinh, vì [quán chiếu như vậy là] trú vào chính định.
5. Khuyến tu
Đã trình bày xong phần tín tâm tu hành. Tiếp theo sẽ trình bày phần lợi ích khuyên tu.
Như vậy, Đại thừa là kho tàng bí mật của chư Phật mà tôi đã trình bày một cách tổng quát. Nếu những ai muốn có chính tín đối với cảnh giới thâm sâu của Như Lai, hết phỉ báng, thể nhập con đường đại thừa thì phải nắm vững [nghĩa lý] của bộ luận này để tư duy tu tập, cuối cùng sẽ đạt đến tuệ giác tối thượng.
Ai nghe được pháp này mà không khiếp sợ thì phải biết người ấy chắc chắn thừa kế dòng giống của Phật, chắc chắn được chư Phật thọ ký. Giả sử có người giáo hóa chúng sinh đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới tu tập mười việc thiện thì vẫn không bằng công đức, thậm chí không thể ví dụ so với người chỉ trong một bữa ăn mà tư duy chính xác pháp môn này.
Lại nữa, nếu người nào tiếp nhận, giữ gìn bộ luận này để quán sát và tu tập trong một ngày một đêm thì côn đức có được vô lượng vô biên, không thể nói hết. Giả sử hết thảy chư Phật trong mười phương, Phật nào cũng khen ngợi công đức người ấy đến vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể cùng tận. Vì sao vậy? Vì công đức của pháp tính là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng như vậy, không có giới hạn.
Đối với bộ luận này, nếu người nào không tin, phỉ báng thì tội báo của họ phải chịu trải qua vô lượng kiếp nhận lấy khổ não vô cùng. Cho nên, chúng sinh hãy tin tưởng, đừng phỉ báng, để rồi tự hại mình mà cũng hại người, đoạn mất hết hạt giống Tam bảo, bởi vì hết thảy đức Như Lai đều nương vào pháp này mà đạt được niết-bàn, hết thảy chư vị Bồ-tát nhờ tu tập pháp này mà thể nhập tuệ giác Phật-đà. Phải biết rằng, chư vị Bồ-tát trong quá khứ đã nhờ pháp này mà đạt được niềm tin thanh tịnh, chư vị Bồ-tát hiện tại đang nhờ pháp này mà đạt được niềm tin thanh tịnh, chư vị Bồ-tát vị lai cũng sẽ nhờ pháp này mà đạt được niềm tin thanh tịnh. Cho nên, mọi người hãy siêng năng tu học.
Kết luận
Nghĩa lý rộng lớn
Thâm sâu của Phật
Nay con tùy thuận
Trình bày tổng quát.
Nguyện đem công đức
Đúng pháp chân như
Hồi hướng khắp cả
Lợi ích muôn loài.
Bản dịch này cho Tăng sinh khóa 9, Trường trung cấp Phật học Đại tòng lâm
Am Vô Nguyện, Mạnh Thu Nhâm Dần, 2022.
[1] Tính không đúng như sự thật. [2] Tính có đúng như sự thật. [3] Như thật không: Không một cách đúng như sự thật. Sự thật là bản giác, là chân như, là chân tâm hoàn toàn vắng lặng, không có bất cứ một tướng trạng, cảnh giới, vọng niệm. [4] Nghiệp thức (業識; S. karmajātilakṣaṇa), còn gọi là nghiệp tướng, nghiệp tướng thức: Thức căn bản bị vô minh che lấp mà bản tâm bị khuấy động. [5] Chuyển thức (轉識; S. pravṛtti-vijñāna): Trừ thức a-lại-da, bảy thức còn lại gọi là chuyển thức. [6] Hiện thức (現識; S. khyātivijñāna): Thức hiện hành, do chủng tử trong thức a-lại-da mà dị thục thức hiện hành. [7] Cái tâm chân thật không phải như vậy, không hình không tướng có thể nắm bắt. Đây toàn là vọng tâm. [8] Đoạn ví dụ này có thể diễn tả theo cách người Việt cho dễ hiểu: Như nước do gió mà nổi sóng, gió lặng thì sóng ngừng mà nước thì vẫn còn vậy. [9] Tức là huân tập bởi ý thức. [10] Tức thức thứ bảy, mạt-na thức. [11] Tức y báo, là thế giới hay môi trường sống của chúng sinh. Môi trường sống tốt hay xấu phụ thuộc vào chính báo. Ở đây đang nói thân Phật và trú xứ của thân ấy. [12] Tức không có chủ thể nhìn thấy và đối tượng được thấy. [13] Chấp ngã, tức nhân ngã kiến (人我見), còn gọi ngã kiến, ngã chấp, thân kiến: chấp giữ nhận thức sai lầm có một thật ngã, tức đối với sự thật các pháp là vô ngã mà vọng chấp cho là có ngã, tức là quan điểm cho rằng có một cái ngã thường hằng, chủ tể. Con người cố chấp vào cái ngã là chủ tể thường hằng, duy nhất gọi là nhân ngã kiến. [14] Chấp pháp, tức pháp ngã kiến (法我見), còn gọi là pháp ngã chấp, pháp ngã, pháp chấp. Quan niệm cho rằng các pháp như sắc, tâm… thật có thể tính. [15] Sự phát tâm của hàng Bồ-tát Thập tín, do tín tâm đã vững chãi mà thể nhập vào địa vị thập tín, từ đó phát khởi trực tâm, phương tiện tâm và đại bi tâm. [16] Nhóm bất định, tức bất định tụ (不定聚, S. aniyata-rāśi): nhóm chúng sinh không phải tà kiến cũng không phải chính kiến; nếu gặp duyên lành thì thành nhóm chính, nếu gặp duyên xấu thì thành nhóm tà, nên gọi là bất định tụ. [17] Sự phát tâm của hàng Bồ-tát từ thập hạnh đến thập hồi hướng.