Mùa Phật đản, Tăng  Ni và Phật tử chúng ta đã không còn xa lạ với câu: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”, có nghĩa “Trên trời dưới trời, Ta là bậc tôn quý nhất”. Đấng Từ phụ đản sinh, bảy bước xưng tôn, tuyên bố trong tam giới này Ngài là đấng tối thắng nhất, là bậc thầy của trời người. Có nhiều người thắc mắc, Đức Phật đã chứng đạt và giảng dạy Vô ngã thì sao Ngài lại tự phụ đến mức ngã mạn như vậy? Thử tìm hiểu một phần nhỏ ý nghĩa của Phật ngôn này.

Kinh Trường A-hàm[1](quyển 1, kinh Đại bổn), nói về nhân duyên của chư Phật quá khứ, mô tả tất cả chư Phật đều sinh ra từ hông phải, đi liền bảy bước mà không cần ai nâng đỡ, đưa tay lên và nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sinh, sinh lão bệnh tử”, nghĩa là “Trên trời dưới trời, Ta là bậc tôn quý, độ thoát sinh lão bệnh tử của chúng sinh”. Tức vừa đản sinh, Đức Phật đã tuyên bố trong tam giới này, Ngài là bậc tôn quý nhất, mục đích chính của sự thị hiện là độ thoát chúng sinh khỏi sinh già bệnh chết.

Kinh Tu hành bổn khởi[2] (quyển 1, phẩm Bồ-tát giáng thân) chép rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, tam giới giai khổ, ngô đương an chi”, nghĩa là “Trên trời dưới trời, Ta là bậc tối tôn, tam giới đều khổ, chỉ Ta được an lạc”. Kinh Thái tử thụy ứng bổn khởi[3] (quyển 1) lại chép rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?”, nghĩa là “Trên trời dưới trời, Ta là tôn quý, tam giới đều khổ, ai là người an lạc?”.

Trong Đại tạng (Nam truyền và Bắc truyền) còn có nhiều kinh luận đề cập đến câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn” này[4], hầu hết tất cả đều xác chứng việc Như Lai đản sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và xưng tôn như vậy. Có hay không việc một em bé vừa ra đời đã có thể tự đi bảy bước và cất tiếng nói giữa thế gian? Có thể đây được xem như một huyền sử, dấu hiệu ra đời của bậc Thánh, một bậc tối tôn mà bất cứ hệ thống tôn giáo nào cũng sẽ tôn xưng đấng giáo chủ của mình như vậy, cho nên chuyện có hay không sẽ không còn quan trọng để tranh cãi.

Vấn đề đặt ra ở đây là, phải chăng Thế Tôn đã cao ngạo khi tuyên bố Ngài là đấng tối tôn trong tam giới như một số người ngày nay đã hiểu? Để rồi dẫn đến nhiều sự giải thích có vẻ như muốn “vớt vát” lại hình ảnh của đấng Từ phụ: “Trên trời dưới trời, duy nhất sự chấp ngã đã khiến cho chúng sinh sinh, lão, bệnh, tử”. Tuy nhiên, câu kinh đó nếu hiểu như vậy thì sai với nghĩa chữ Hán, và đưa nhân cách bậc Thầy của trời người trở thành một con người bình thường.

Thiết nghĩ, sự hiểu nhầm này xuất phát từ chữ “Ngã” 我của Hán ngữ. Nguyên gốc Pāli của câu này là: “Aggo’haṃ asmi lokassa; Jeṭṭho’haṃ asmi lokassa; Seṭṭho’haṃ asmi lokassa; Ayaṃ antimā jāti; N’atthi’ dāni punabbhavoti”[5], nghĩa là: “Ta là bậc cao nhất trên đời; Ta là bậc quý nhất trên đời; Ta là bậc đáng trọng nhất trên đời; Nay là kiếp cuối cùng; Không còn phải sinh lại ở đời này nữa”. Trong đó, Aggo’haṃ = Agga + ahaṃ; Jeṭṭho’haṃ= Jeṭṭha + ahaṃ; Seṭṭho’haṃ = Seṭṭha + ahaṃ; cả 3 từ này dùng với biến cách số 1: chủ thể cách. Chủ từ trong câu là ahaṃ = tôi, ta…, một câu nói đầy đủ thì phải có chủ thể và đối tượng, và Hán văn đã dịch chữ ahaṃ này thành Ngã. Mọi vấn đề phát sinh từ đây, bởi vì ngữ pháp Hán văn không chia các biến cách như ngôn ngữ Pāli và Sanskrit, không có khái niệm rõ ràng về ngôi thứ. Cho nên “Tôi, ta…” chữ Hán chỉ dùng chung chữ Ngã, dẫn đến hiểu nhầm với chữ Ngã trong bản Ngã, tự Ngã, tức cái Ta, cái Tôi trong tiếng Việt.

Triết học Ấn Độ chia Ngã thành các tầng mức khác nhau, và chính Đức Phật đã phủ định các tầng tự ngã này trong kinh Kim cang.

– Pudgala, một tự ngã như là chủ thể tâm lý, trong nhiều trường hợp, Hán không dịch mà phiên âm: Bổ-đặc-già-la, vì ý nghĩa từ này trong Hán ngữ không có từ tương đương. Pudgala có nghĩa là nhân xưng (person), trong mọi giao tiếp, không thể thiếu vắng Pudgala, nếu thiếu sẽ không hiểu ai đang nói và ai đang nghe. Tức là, tự ngã nhân xưng ông A, bà B; con người, con vật; nhà vua hay ăn mày….

– Jīva, nguyên lý sự sống (living), cái duy trì sự sống mà các quan niệm tôn giáo quan niệm như là linh hồn, vì muốn tồn tại thì phải có yếu tố sự sống, yếu tố sự sống này mất thì chúng ta chết, đây là quan niệm rất phổ thông, tức cho rằng mỗi người đều có Jīva: nó ăn, nó thở… Hán ngữ cũng không có từ tương đương, nên ngài La-thập dịch là thọ giả (tức tuổi thọ), ngài Huyền Tráng dịch là mạng (tức sinh mạng).

Theo quan niệm của Vệ-đà thì Jīva là cái luân hồi sinh tử, Pudgala là tự ngã tâm lý, khi chết thì Pudgala sẽ mất, chỉ còn Jīva tồn tại để đi đến đời sống khácCái vận hành trong đời này để có sự vui buồn đó là Pudgala, khi thân này rã, cái duy trì đến đời sau đó là Jīva.

– Ātman, một tự ngã siêu nghiệm thường hằng bất biến. Jīva dù có biến thành cái này cái kia, thường hằng trong luân hồi, nhưng khi hết luân hồi thì Jīva cũng không còn nữa. Tuy nhiên, Ātman dù có luân hồi hay không thì vẫn thường hằng bất biến. Đau khổ vì lặn hụp trong đời này đời sau, mong muốn thoát khỏi đau khổ trở về với một tự ngã siêu nhiên, một cái gì đó bao la như hư không, đó là Ātman (self).

– Sattva, hữu tình hay là chúng sinh (being). Hữu tình dịch đúng là hữu tính, tức là cái tồn tại có cảm giác, có thương có ghét. Chữ Hữu có nghĩa là tồn tại, dịch từ chữ Sat, chứ không phải nghĩa là . Quan niệm rằng, trong luân hồi sinh tử, có nhiều cái Ta như vậy cùng tồn tại, từ đó hình thành khái niệm Sattva, chúng sinh tồn tại ở đó.

Bốn khái niệm tự ngã như vậy, kinh Kim cang gọi là “ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả”, chỉ chung cho một con người, chứ không phải chỉ cho nhiều người như đa số người đọc Kim cang vẫn hiểu: “Ta, người, chúng sinh, mạng sống”. Tức là Đức Phật bác bỏ quan niệm về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, hay còn nói là “Vô ngã tưởng, vô nhân tưởng, vô chúng sinh tưởng, vô thọ giả tưởng”. Ở đây, tưởng (saṃjña) là quan niệm, khái niệm, ngài La-thập dịch là tướng, từ đó rất nhiều người hiểu nhầm về bốn tầng tự ngã này. Đức Phật bác bỏ những cái tưởng này nhằm loại bỏ sự huân tập của Tập khí chấp ngã (Ātmadṛṣtīvāsanā), tức là sự chấp thủ về Ngã và Ngã sở một cách bất thực.

Như vậy, Như Lai có kiêu ngạo hay không, chúng ta cứ đến với Ngài, đến với giáo lý của Ngài để thực tập và chiêm nghiệm. Có hay không chuyện vừa đản sinh đã có thể đi bảy bước và tuyên bố “Ta là đấng tối thượng trong tam giới”, điều đó không quan trọng, bởi vì Như Lai có thật sự tối thượng, là thầy của trời người hay không, mỗi người tự cảm nhận lấy. Bởi ngay cả bậc đại trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất cũng tán thán Đức Phật rằng: “Trên trời dưới trời không ai bằng Phật. Mười phương thế giới cũng như vậy. Tất cả những gì trong thế gian con đều thấy biết hết. Nhưng không có ai được như Đức Phật”[6].

Sự thật, Đức Phật chỉ xuất hiện ở đời sau khi Giác ngộ. Sự khẳng định địa vị tối tôn giữa trời người của Đức Phật, bậc Giác ngộ là một sự thật như thị với lời chân thật cũng như thị. Tuyên bố của Thái tử Tất-đạt-đa lúc đản sinh là một dự ngôn, điều ấy được xác chứng sau khi Giác ngộ, thành Phật.

Thích Chơn Trí

[1] Đại, T01, No. 1, p. 4c1-2

[2] Đại, T03, No. 184, p. 463c14

[3] Đại ,T03, No. 185, p. 473c2-3

[4] Tham chiếu: Kinh Hiền ngu, quyển 10; Kinh Phật thuyết thủ Lăng nghiêm tam muội, quyển 2; Thiện Kiến luật Tỳ-bà-sa, quyển 4; Kim cang Bát nhã sớ, quyển 1; Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh sớ, quyển 53; Trung quán luận sớ, quyển 7.

[5] D.iii, kinh Đại bổn (Mahāpadānasuttanta).

[6] Đại, T04, Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh: 天上天下無如佛,十方世界亦無比,世間所有我盡見,一切無有如佛者

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Triết học cho giáo dục gia trong thế giới cuồng loạn
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

“Chúng ta đang thiếu tinh thần công cộng và lòng ái quốc chân chánh ngay bây giờ. Chúng ta còn đang mưu cầu lợi ích cá nhân, gia đình quá nhiều. Nếu mưu lợi này được thỏa mãn, xin đừng nhân danh này, nọ đến mọi người, khi sự việc bất hạnh xảy đến họ....

Ngài Thế Thân: Cuộc đời, Tác phẩm, Duy Thức, và Những tranh luận
Lịch sử, Nghiên cứu

Ngài Thế Thân (thế kỷ thứ 4 sau Tây Lịch) được đánh dấu niên đại ở vào thời cực thịnh của triều đại Gupta bởi vì sự kiện, theo ngài Chân Đế [Paramàrtha], thì ngài [Thế Thân] đã dạy cho thái tử, hoàng hậu của Vua “Vikramàditva” – danh xưng dành cho Đại Đế Chandragupta...

Thiền Trúc Lâm Yên Tử – Dòng thiền Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Xuất phát từ dân tộc Việt, với đặc thù riêng, không như các thiền phái khác, thiền Trúc Lâm Yên Tử là dòng thiền Việt Nam. Lịch sử Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Thiền phái Trúc Lâm xuất hiện cách chúng ta hơn 8 thế kỷ. Do sử liệu Thiền tông Việt Nam bị...

Vua Phật Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

(Đề tài tham luận Hội thảo: “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Thiền phái Trúc Lâm” Do trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội tổ chức ngày 27/11/2016 tại Thiền viện Sùng Phúc) Đã hơn bảy thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên...

Khảo sát về nguồn gốc của nghi lễ tấn hương
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Tập tục tấn hương qua các mục thảo luận trên chúng ta thấy có rất nhiều thuyết khác nhau, nhưng rõ và gần nhất là về câu chuyện của ngài Sa Môn Thích Chí Đức ở chùa Thiên Hỷ tại Kim Lăng vào đời nhà Nguyên được ghi chép trong “Đại Minh Cao Tăng truyện”....

Vài điều liên hệ trong sự nghiệp của Đại sư Thiện Hoa ở Việt Nam và Đại sư Huyền Trang ở Trung Hoa
Lịch sử, Nghiên cứu

Mỗi dân tộc, tôn giáo trong từng giai đoạn lịch sử đều có những bậc vĩ nhân. Có thể tiêu chí về bậc vĩ nhân giữa các cộng đồng dân tộc, tôn giáo không đồng nhất, nhưng điểm chung của các bậc vĩ nhân là tạo nên những đóng góp to lớn về nhiều mặt...

Chuyện vua Minh Mạng với những lần ghé chùa Thiên Mụ
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Minh Mạng là vị vua thứ hai của vương triều Nguyễn, giữ ngôi từ năm 1820 đến năm 1840. Ông nổi tiếng thông minh giỏi giang, quyết đoán và siêng năng. Ở mọi lĩnh vực của đất nước từ nội trị đến ngoại giao đều có dấu ấn trị vì của nhà vua. Đại Nam...

Sơ lược truyền thừa phái Ni dòng Lâm Tế miền Bắc
Lịch sử, Nghiên cứu

Ghi chép truyền thừa về Ni giới ở ta thời xưa, cách ghi chép ngắn gọn, thường ghi các đời trụ trì một ngôi chùa. Nhiều vị thiền tổ Ni, chỉ nhắc đến tên, hoặc cho vài thông tin như tộc tính, quê quán.  Nguồn sử liệu Trước hết, xin giới thiệu Thiền môn tu trì...

Động và tĩnh – Triết lý sống trong bài thơ “Dụng chân tâm” của Trần Thánh Tông
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Dụng chân tâm không chỉ đơn thuần là một bài thơ thiền sâu sắc mà còn là một lời nhắc nhở giản dị về lối sống hài hòa giữa động và tĩnh. Hãy để bài thơ này trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống của chúng ta, dẫn dắt chúng ta tìm thấy sự...

Giới thuyết về Thiền uyển tập anh
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Trích yếu: Thiền uyển tập anh là bộ sử Phật giáo quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Thiền uyển tập anh tập hợp các tiểu truyện thiền sư trong khoảng gần 1000 năm lịch sử, hàm chứa các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, tôn giáo của Việt Nam từ...

Cuộc đời Tôn giả Rahula qua Kinh tạng Nikaya
Lịch sử, Nghiên cứu

Thế Tôn dạy cho Rahula phải biết quán xét, suy ngẫm tường tận điều nào đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai thì hãy buông bỏ để giữ cho mọi hành động của ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh trong sạch đưa đến sự an lạc giải thoát trong đời sống....

Ảnh hưởng của Phật giáo thời Lý đến các lĩnh vực giáo dục, văn học và phong tục tập quán của người Việt
Lịch sử, Văn hóa - Xã hội

Phật giáo thời Lý có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực giáo dục, văn học và phong tục tập quán của người Việt góp phần tạo nên bản sắc dân tộc ta trong giai đoạn nhà Lý trị vì. Tóm tắt: Khi đề cập đến sự tín ngưỡng tâm linh của người Việt thì...

Chính quyền Chúa Nguyễn với các ngôi chùa Sắc tứ ở Đàng Trong (giai đoạn 1558-1777)
Lịch sử, Nghiên cứu

Các chùa sắc tứ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của chính quyền chúa Nguyễn, mặt khác, thông qua các hoạt động và thực hành nghi lễ Phật giáo với quy mô lớn, thời kỳ này các ngôi chùa sắc tứ đã tỏ rõ vai trò quan trọng trong việc xiển dương Phật...

Đi tìm cơ sở truyền thừa của Ni giới tại Việt Nam qua thư tịch Hán cổ
Lịch sử, Nghiên cứu

Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn. Ngay như tại Việt Nam, do đặc thù của các điều kiện lịch sử, thế nên nhiều nguồn thư tịch quý giá cổ xưa...

Hai bảo vật quốc gia ở chùa Sùng Khánh và chùa Bình Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Vị Xuyên – Hà Giang không chỉ nổi tiếng về phong cảnh thiên nhiên phong phú, nhiều phong tục tập quán, văn hóa truyền thống và những di tích lịch sử mang đậm nét bản sắc dân tộc, mà còn nhiều điểm du lịch tâm linh như: Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Vị Xuyên, đền thờ...

Chủ nghĩa Platon và giáo lý đạo Phật
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Thời đó, khoa học chưa phát triển, máy móc còn thô sơ nhưng họ hướng tới sự tìm tòi thế giới, bản tính con người một cách sâu sắc. Phật pháp ở thế gian, không xa sự giác ngộ của thế gian, tuy hai nền triết học khác nhau nhưng đều chung tư tưởng giúp...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.