Cuộc sống bộn bề, nhiều lo toan làm cho con người cảm thấy mệt mỏiMệt mỏi hơn khi phải sống chung với những người, những điều… mình không ưa thích. Trong môi trường sống như vậy, người biết tu tập sẽ có cách làm cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn.

Khi có người làm cho mình phiền giận, nếu biết tu tập, mình sẽ có cách diệt trừ hoặc kiềm chế cơn giận, không để cho giận dữ nổi lên và không nuôi dưỡng sự hờn giận trong lòng. Dưới đây là năm phương pháp diệt trừ phiền giận do Tôn giả Xá-lợi-phất hướng dẫn, được nói trong Trung A-hàm (kinh Thủy dụ, số 25).

Trước hết, nếu sống hay làm việc trong môi trường mà có những người có thân hành không thanh tịnh, không dễ thương; họ luôn có những hành động, những cử chỉ làm cho mình tổn thương, làm cho mình bực bội, nhưng lời nói của họ vẫn còn thanh tịnh, vẫn còn dễ thương thì mình đừng nhìn vào thân hành của người đó mà chỉ chú ý đến lời nói.

Ví như một vị Tỳ-kheo tu tập khổ hạnhthọ trì y phấn tảo, vị ấy thấy tấm vải vất bên đường, dù dơ bẩn nhưng sau khi quán sát thấy còn lành lặn, còn dùng được thì nhặt lấy đem về giặt sạch để may y mà dùng. Với một tấm vải còn lành lặn, còn dùng được, nhưng dơ bẩn, và mình chỉ nhìn vào chỗ dơ bẩn đó thôi rồi vất đi thì thật là uổng phí và thiếu trí tuệ!

Cũng vậy, với một con người có lời nói dễ thương nhưng hành động không dễ thương, nếu mình là người biết tu tập, mình không nên chỉ nhìn vào hành động của người ấy mà hãy để ý đến lời nói dễ thương của họ, sống với những đức tính dễ thương của họ. Thực hành như vậy mình sẽ trừ được sự phiền giận.

Phải thương lấy cuộc đờiphát tâm đem Chánh pháp để dựng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể nhìn thấy, chứ không phải khởi tâm giận người, hận đời.

Ngược lại, nếu một người có lời nói không thanh tịnh, không dễ thươnghay nói những lời cay nghiệt, những lời xóc xỉa, mỉa maithô lỗ, cộc cằn… nhưng lại có thân hành thanh tịnh, có nhiều việc làm dễ thương, hay giúp đỡ người khác… thì mình đừng nhìn vào lời nói của người đó mà chỉ chú ý đến thân hành, chú ý đến việc làm của người ấy.

Ví như, cách thôn xóm không xa, có hồ nước rất trong và mát, nhưng bị rêu cỏ phủ kín mặt hồ. Có người bị nóng bứcphiền muộnđói khátmệt mỏi, bị nóng nực bức bách đi đến. Người ấy đến bên hồ, cởi áo để trên bờ rồi nhảy xuống hồ, dùng hai tay vớt rêu ra, tắm rửa thỏa thích, trừ bỏ nóng bứcphiền muộnđói khátmệt mỏi.

Cũng vậy, giả sử có người mà lời nói không dễ thương, nhưng có nhiều hành động dễ thương, nếu mình là người biết tu tập thì chớ quan tâm đến lời nói của người ấy, mà chỉ chú ý đến hành động dễ thương của người ấy thôi. Người biết tu tập như vậy sẽ diệt trừ hết phiền giận. Trong trường hợp phải sống chung với những người mà việc làm và lời nói đều không dễ thương, nhưng tâm ý còn có chút thanh tịnh, tâm ý còn dễ thương thì chớ nên nghĩ đến việc làm và lời nói không thanh tịnh mà chỉ nghĩ đến tâm còn có chút thanh tịnh của người ấy.

Kinh ghi: “Này chư Hiềngiả sử có người mà hành động của thân không dễ thươnglời nói cũng không dễ thương, nhưng tâm ý còn có chút dễ thương; nếu mình là người có trí, có tu tập, sống chung với người ấy mà sinh lòng phiền giận thì phải diệt trừ phiền giận bằng cách nào? Này chư Hiềnví như ở ngã tư đường có vũng nước sạch trong dấu chân trâu, có người bị nóng bứcphiền muộnđói khátmệt mỏi, bị gió nóng bức bách đi đến.

Người ấy nghĩ thế này: ‘Mặc dù nước trong dấu chân trâu ở ngã tư đường này quá ít, nếu ta dùng tay hoặc lấy lá cây múc thì nước sẽ bị khuấy đục, nên không thể trừ bỏ sự nóng bứcphiền muộnđói khát và sự mệt mỏi cho ta. Vậy ta nên quỳ mọp xuống, hai tay và đầu gối áp sát mặt đất, dùng miệng uống nước’. Người ấy liền quỳ mọp xuống, hai tay và đầu gối áp sát mặt đất, dùng miệng uống nước. Nhờ vậy mà người ấy liền trừ được sự nóng bứcphiền muộnđói khátmệt mỏi.

Cũng vậy, này chư Hiền! Giả sử có người mà việc làm của thân không thanh tịnhlời nói cũng không thanh tịnh, nhưng tâm ý còn có chút thanh tịnh thì chớ quan tâm đến việc làm không thanh tịnh của thân, chớ quan tâm đến lời nói không thanh tịnh của người đó, mà chỉ chú ý đến tâm ý còn có chút thanh tịnh của người đó thôi. Này chư Hiền, nếu là người trí, người biết tu tập thì nên diệt trừ phiền giận bằng cách như vậy”.

Nhưng nếu sống chung với một người mà việc làm của thân, lời nói của miệng và tâm ý của họ đều không thanh tịnh, không còn chút gì dễ thương hết thì phải làm sao? Thì phải nghĩ rằng người đó đang sống trong đau khổ, khi mạng chung nhất định bị đọa lạc vào những nơi xấu ác. Nghĩ như vậy rồi mình nên khởi lòng thương xót, khởi niệm từ mẫn với người đó chứ không nên giận hờn.

Kinh ghi: “Này chư Hiềngiả sử có người mà việc làm của thân không thanh tịnhlời nói và tâm ý cũng không thanh tịnh; nếu mình là người có trí, là người biết tu tập thì phải diệt trừ phiền giận bằng cách nào? Này chư Hiền, như có người lữ hành đang đi trên con đường dài xa thẳm, nửa đường lại mắc bệnh, rất mệt mỏi, khốn đốn, vì xung quanh cô quạnh lại không có bạn bè, thôn xóm phía sau càng lúc càng xa, mà thôn xóm phía trước lại chưa đến.

Nếu có người đi đến và đứng bên cạnh, thấy người lữ hành này đang đi trên con đường dài xa thẳm, nửa đường lại mắc bệnh, rất mệt mỏi, khốn đốn, vì xung quanh cô quạnh lại không có không bạn bè, thôn xóm phía sau càng lúc càng xa mà thôn xóm phía trước lại chưa đến.

Người bệnh ấy nếu được người này giúp đỡ thì từ nơi đồng không mông quạnh sẽ dần dần đưa về thôn ấp, rồi cho uống thuốc hay, bồi bổ bằng đồ ăn thức uống thơm ngon và được chăm sóc kỹ lưỡng thì chắc chắn bệnh của người ấy sẽ được thuyên giảm. Đó là do vì người kia có lòng thương xót, có từ tâm với người bệnh này.

Cũng vậy, này chư Hiềngiả sử có người mà việc làm của thân không thanh tịnhlời nói và tâm ý cũng không thanh tịnh, nếu mình là người có trí, có tu tập nhìn thấy thì nên suy nghĩ như vầy: ‘Hiền giả này việc làm không thanh tịnhlời nói và tâm ý cũng không thanh tịnh, đừng để cho hiền giả này vì việc làm của thân không thanh tịnhlời nói và tâm ý cũng không thanh tịnh mà sau khi chết đi bị rơi vào đường xấu, sinh vào địa ngục.

Nếu hiền giả này gặp bậc thiện tri thức, thì sẽ lìa bỏ hành động không thanh tịnh của thân, tu sửa để thân hành động thanh tịnhtừ bỏ lời nói không thanh tịnh, tu sửa để lời nói thanh tịnhtừ bỏ tâm ý không thanh tịnh, tu sửa để tâm ý trở nên thanh tịnh. Nhờ vậy, nên mọi hành động từ thân, từ lời nói và từ tâm ý của hiền giả này trở nên thanh tịnh, sau khi qua đời chắc chắn sanh đến cõi lành, cho đến sanh lên cõi trời’. Đó là do bậc thiện tri thức kia có lòng thương xót, có tâm từ với hiền giả này”.

Như vậy, trong trường hợp mình phải sống chung với những người toàn những điều bất thiệnviệc làmlời nói và tâm ý không có gì thiện lành, hoặc mình sống trong một xã hội còn nhiều bất công thối nát, nếu là người có trí, mình sẽ làm gì?

Ở đây, với tư cách là người học Phật, là người có tu tập, mình phải phát khởi tâm từthương xót cứu giúp những người ấy, đừng để họ phải bị chết và đọa vào ác xứ; phải thương lấy cuộc đờiphát tâm đem Chánh pháp để dựng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể nhìn thấy, chứ không phải khởi tâm giận người, hận đời.

Còn nếu một người có thân hành, khẩu hành, ý hành thanh tịnh thì không có lý do gì để mình giận hờn người ấy. Người ấy như hồ nước đã trong lại ngọt, đáy sâu bằng phẳng… tha hồ cho mình tắm mát. Đó là bậc thiện tri thức, hãy thân cận gần gũi để được học hỏi.

Cuộc sống chắc hẳn còn nhiều điều làm cho chúng ta phiền giận, nhưng tựu trung, qua năm phương pháp diệt trừ phiền giận mà Tôn giả Xá-lợi-phất hướng dẫn được nêu trên, chúng ta rút ra bài học thiết thực ấy là hãy nhìn vào mặt tích cực của con người và xã hội. Nhân vô thập toàn, con người không ai là toàn mỹ, trong đó có mình, cho nên hãy chọn lấy những điều tốt đẹp nhất để sống với, sống cùng thì chắc chắn sẽ loại trừ được muộn phiền, có được an vui.

Thích Nguyên Hùng

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Năm Và Sáu
Luật, Phật học

LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon – tại vị từ 1853 – 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Tư
Luật, Phật học

I– Thuyết thứ nhất Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Ba
Luật, Phật học

Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ . Vua...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Hai
Luật, Phật học

Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, 4/ Tỳ kheo ăn xong, đi sang nơi...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Nhất
Luật, Phật học

Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan. Bấy giờ, tôn giả Đại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo:...

Tu tập tịnh giới và pháp môn Tịnh Độ
Luận, Phật học

Thầy Thích Thái Hòa giảng tại trường Hạ chùa Vạn-đức, Thủ-đức, Phật lịch 2564  I. Im lặng 1- Pháp môn Tịnh độ được thiết lập trên nền tảng của Tịnh giới Chúng ta muốn công cụ Tịnh độ thành công nên phải đặt nền tảng của Tịnh giới. Bởi vì, thế giới Tịnh độ của Phật...

Căn Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng
Luật, Phật học

CĂN BẢN GIỚI BỒ TÁT CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG Nguyên tác: Root Bodhisattva Vows modified, March 2002, from Berzin, Alexander. Taking the Kalachakra Initiation Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – Thursday, March 05, 2015 Giới Thiệu Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi “một hành...

Phổ Hiền nguyện qua cái nhìn Phật tử sơ cơ
Phật học

Phật tử tu học theo truyền thống Bắc tông thường tụng niệm mười Phổ Hiền hạnh nguyện trong mỗi khoá lễ. Hầu như ai cũng thuộc lòng, tụng như cháo chảy nhưng nhiều khi chỉ là đọc tụng theo quán tính, theo trí nhớ chứ ít khi tìm hiểu thấu đáo, hoặc là thật sự...

Hạnh nguyện của Đức Bồ tát Quán Thế Âm
Luận, Phật học

Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên...

Tánh Khởi Luận: Lý thuyết phân phối trật tự trong Hoa Nghiêm Tông
Luận, Phật học

(I) Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô. Họ khởi đầu bằng nỗ lực nghe và thấu hiểu mọi lời được nói ra. Họ nỗ lực để thấy hiểu mọi chiều hướng tác...

Bài Kinh Dài Về Tánh Không
Kinh, Phật học

BÀI KINH DÀI VỀ TÁNH KHÔNG Kinh Mahasunnata-sutta-sutta (dựa theo các bản tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna và tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu) Bản dịch Việt: Hoang Phong Tôi từng được nghe như thế này: Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha). Vào buổi...

Quy Sơn Cảnh Sách Văn
Luật, Phật học

溈山大圓禪師警策文 Quy Sơn Cảnh Sách Văn (Bài Văn Cảnh Sách Của Ngài Quy Sơn) (Đề này còn viết “Qui sơn Đại viên thiền sư cảnh sách”, nghĩa: Bài văn Cảnh sách của Đại viên thiền sư ở núi Quy sơn.) (1) 夫業繫受身。未免形累。禀父母之遺體。假衆緣而共成。雖乃四大扶持。常相違背。 Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị...

Chánh niệm phát huy khả năng nhận thức, điều tiết cảm xúc và làm chủ hành vi
Luận, Phật học

Chánh niệm viết đầy đủ trong tiếng Pali là “sammā-sati”, nghĩa là sự tâm niệm đúng đắn. Nó có nguồn gốc xuất phát từ tuyền thống thiền quán phương Đông, cụ thể là từ Phật giáo Nguyên thủy (Hart, 1987). Có mặt hơn 25 thế kỷ, thế nhưng chánh niệm mới được tiếp cận và...

Bài kinh về sự Chú Tâm Tỉnh Giác
Kinh, Phật học

BÀI KINH VỀ SỰ CHÚ TÂM TỈNH GIÁC Satipatthana Sutta (Majjhima Nikaya 10) HOANG PHONG chuyển ngữ Lời giới thiệu của người dịch Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana, nghĩa từ chương là “Sự quán thấy chuyên biệt” hay “sâu sắc”, kinh sách Hán ngữ gọi là “Minh Tuệ” hay...

Tứ diệu đế với vấn đề giáo dục đạo đức toàn cầu
Luận, Phật học, Văn hóa

TÓM TẮT Tứ diệu đế hay là bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo chính là cốt tủy cơ bản để hợp thành học thuyết nhân sinh cứu đời. Đó là kết quả suy ngẫm và trải nghiệm thông qua thực tiễn cuộc sống của chính Phật tổ và sự tổng kết những suy...

Thông Điệp Thành Đạo Của Đức Phật
Phật học, Sự kiện

Vậy là hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, kể từ một đêm khu rừng hoang vắng bên bờ sông Ni-liên-thuyền (Nairanjama), ánh trăng chiếu lờ mờ bàng bạc trong không gian hoàn toàn im ắng, cô tịch. Khu rừng chìm trong màn đêm huyền ảo, thỉnh thoảng có âm vang những tiếng muông thú kêu trong đêm trường nghe rờn rợn, tiếng côn trùng...