Tăng cang là chức phẩm cao cấp nhất trong hàng giáo phẩm của Phật giáo Việt Nam thời Nguyễn (1802 – 1945). Đó không phải là một sự tôn xưng của dân gian hay trong nội bộ bản thân Phật giáo, mà là sự sắc chuẩn ban phong của triều đình như một sự ghi nhận, đánh giá về đạo hạnh của một thiền tăng trên con đường giác ngộ chân lý giải thoát của Đức Như Lai. Người được phong Tăng cang, bởi vậy, là một thiền sư đạo cao đức dày, là bậc long tượng chốn thiền lâm.

Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thời Nguyễn, đặc biệt giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX xuất hiện nhiều bậc danh tăng, trong đó có một số người được triều đình sắc chuẩn Tăng cang, như các Thiền sư Từ Trí, Phước Trí, Huệ Duyệt, Thiện Quả và Quảng Hưng. Trước mắt, bài viết này sẽ phác  họa những nét cơ bản về cuộc đời và hành trạng của Thiền sư Ấn Lan – Tổ Huệ – Từ Trí (1852 – 1921), người đầu tiên của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng được nhận chức Tăng cang do triều Nguyễn ban phong.

Thiền sư Ấn Lan – Tổ Huệ – Từ Trí có tục danh là Nguyễn Viết Lư (Lô), hiệu Thức Trai, sinh năm Nhâm Tý (1852), tại xã An Bình, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Bình Chánh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam).

Năm 15 tuổi, ngài xuất gia vào chùa Ứng Chân tại Ngũ Hành Sơn (năm 1891, chùa được đổi thành Linh Ứng), được Thiền sư Chương Quảng – Tuyên Châu – Mật Hành nhận làm đệ tử trao truyền y bát, ban pháp danh Ấn Lan, tự Tổ Huệ, hiệu Từ Trí. Ngài nối pháp đời thứ 39 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 6 chi phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 2 (1886), ngài được triều đình bổ làm trụ trì chùa Ứng Chân. Thiền sư Từ Trí là người có phong thái trang nghiêm, rất chú tâm lo liệu hoạt động Phật sự, cảnh quan chùa chiền được sư tôn dựng, bổ khuyết đẹp đẽ. Dưới thời ngài, nhiều tượng Phật, chuông đồng, bài vị được tạo tác an trí vào chùa. Không những vậy, ngài còn nổi tiếng là người am tường khoa phạm, quản lý và truyền dạy Tăng đồ rất nghiêm cẩn; đồng thời nhiều lần tổ chức trai đàn và đều dự làm ngôi tôn chứng. Vì thế, thiền sư có ảnh hưởng lớn trong hàng Tăng chúng; các vị Nho học tài năng cũng tín mộ; đặc biệt, còn được vua Thành Thái trọng thị. Năm Thành Thái thứ 7 (1895), thiền sư được sắc chuẩn Tăng cang cai quản cả hai chùa Tam Thai và Linh Ứng, một sự kiện chưa hề có của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng.

Cần nói thêm rằng dưới triều Nguyễn, Tam Thai và Linh Ứng là hai ngôi chùa lớn, những địa chỉ nổi tiếng của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng, là hai trong ba ngôi chùa của vùng đất này được hưởng quy chế chùa quan1. Tất cả các hoạt động về tu tạo cảnh chùa, tô tượng đúc chuông, tổ chức sơn môn và nghi lễ ở đây đều thông qua nhà nước và được nhà nước bao cấp quản lãnh. Đặc biệt, các vua từ Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức, Thành Thái thường đến đây thưởng lãm cảnh quan chùa chiền, dự lễ trai đàn và ban cho nhiều ân điển.

Như vậy, việc Thiền sư Từ Trí được phong Tăng cang là một vinh hạnh lớn lao, một sự thừa nhận của triều đình về công phu tu chứng của thiền sư.

Sau khi được phong Tăng cang, năm Thành Thái năm thứ 9 (1897), thiền sư được triều đình cho xây một ngôi nhà riêng để sinh hoạt. Cũng trong năm này, thiền sư được vinh dự phụng giá ngự Bắc Kỳ, được vua ban tặng “ngũ phúc ngân tiền nhị mai”. Đến năm Thành Thái thứ 12 (1900), ngài được ban biển có bốn  chữ “Hữu tâm tượng giáo” để khuyến khích. Năm thứ 14 (1902), vua ngự đến lễ trai đàn do bổn tự tổ chức, lại ban “ngũ phúc ngân tiền” và sáu chiếc cà-sa tưởng thưởng cho công hạnh viên mãn của thiền sư.

Năm Thành Thái thứ 18 (1906), ngài bị bệnh đau yếu, khó kham công vụ nên trình xin thôi việc quản lý Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn. Bệnh tình ngày càng nghiêm trọng, ngài phải vào Hội An điều trị, nhưng không một phút lìa xa giới luật, trai giới nghiêm khắc. A. Sallet sau này ghi lại: “Theo tôi biết thì vị Tăng cang tên Lư rất nghiêm khắc đối với điều này. Năm 1920, ông ta đến nhờ Bệnh viện Faifo điều trị về một căn bệnh trầm trọng và sau đó ông ta đã chết. Bất chấp mọi giải thích, mọi lý lẽ viện ra, vị thầy tu cao tuổi không bao giờ chịu phạm vào điều luật ăn chay…”2.

Khải Định năm thứ 6 (1921), sư thâu thần viên tịch. Nhục thân được tôn trí tại phía Nam ngọn Thủy Sơn.

Tập Ngũ Hành Sơn lục hoàn thành vào năm Khải Định thứ nhất (1916) còn lại đến nay, một phần là do thiền sư trước tác3. Đây là tập sách đầu tiên viết về Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng, một tài liệu tham khảo tốt cho những ai quan tâm nghiên cứu Phật giáo trên mảnh đất này.

Công lao và đức hạnh của thiền sư được văn bia chùa Linh Ứng ca ngợi: “Ngũ Hành Sơn chi danh ư ngã Nam cố tự hữu thiên nhiên kỳ thắng  dã. Tuy nhiên bất hữu tiên cốt nan khấu huyền huyền, duy bảo Phật tâm thủy thác thiền phạm. Thức Trai thử thân Phật da! Tiên da! Bỉ kỳ triều tự lôi chuyên, tâm tự tịch hải đồng thiên tế tính đồng viên. Thử nhân nhi đắc, thử sơn đắc đắc nhi lai diệc Tiên nhi Phật dã (…) Lượng Thức Trai kỳ vi thiền lưu chi tôn. Ô hô! Sơn hữu Ngũ Hành Sơn, tăng hữu ngũ thông thiên tác chi hợp tại thử sơn trung, Thức Trai hòa thượng vạn cổ cao phong”. Nghĩa là: “Danh thắng Ngũ Hành Sơn  ở nước Nam ta từ xưa đã là nơi có thiên nhiên tuyệt đẹp. Tuy nhiên, không có tiên cốt thì khó mà xem là huyền bí, chỉ có bảo Phật tâm mới gánh vác được thiền phạm. Thức Trai này thân là Phật ư! Là tiên ư! Nước triều kia tự tiếng sét đánh, tâm tự tĩnh lặng giữa biển khơi, cùng trời đất giao hòa để chân tính về cùng một thể. Người này mà đắc đạo, cũng như núi kia đắc đạo thì cái sự đắc ấy đại để cũng là tiên, là Phật cả (…) Lượng xét Thức Trai là bậc tôn quý của thiền lưu vậy. Ôi! Núi có Ngũ Hành, tăng có ngũ thông, do trời tạo tác mà hợp ở giữa núi này. Hòa thượng Thức Trai vạn năm còn mãi!”4.

Bài & ảnh: Lê Xuân Thông

Ghi chú:

  1. Ngôi chùa kia là chùa Vĩnh An (ở huyện Duy Xuyên) do vua Minh Mạng sức cho xây dựng năm 1824. Chùa này nay đã mất.
  2. A. Sallet (2002), “Núi đá hoa cương (Ngũ Hành Sơn)”, Những người bạn cố đô Huế (B.A.V.H), Tập XI, 1924, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.127-128.
  3. Tài liệu được viết bằng chữ Hán Nôm trên giấy dó, gồm49 tờ; được với bởi các thời điểm khác nhau, hoàn thành năm Khải Định thứ 2 (1917). Tác giả gồm nhiều người, ngoài Thiền sư Từ Trí còn có các quan lại ở phủ Điện Bàn và một số thiền sư ở chùa Tam Thai và Linh Ứng.
  4. Bia lập năm Duy Tân thứ 9 (1915). Hiện bia vẫn còn dựng trước sân chùa Linh Ứng. Bài ký do Tri phủ Điện Bàn Nguyễn Đình Tiến cẩn tác, nguyên Án sát sứ Bình Thuận Nguyễn Đức Quân sửa chính, Tri phủ Điện Bàn đã nghỉ hưu và Giáo thụ Võ Thái nhuận sắc.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Xu thế biến đổi trong Kiến trúc, cảnh quan chùa Huế
Kiến trúc-Mỹ thuật, Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Phật giáo Huế với một bề dày lịch sử, gắn liền với thăng trầm vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân xưa, đã hàm chứa, bảo tồn được nét riêng có trên nhiều mặt của yếu tính truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, trong chiều hướng phát triển của xã hội thì trong...

Tín ngưỡng thờ Long Vương trong Phật giáo Nam bộ
Nghiên cứu, Văn hóa

Tượng Long Vương ở Tổ đình Hội Khánh (Bình Dương). LONG VƯƠNG TRONG PHẬT GIÁO Trong Phật giáo, rồng là một trong Bát bộ chúng thủ hộ Phật pháp. Lãnh tụ của Long tộc gọi là Long Vương, có đầy đủ uy lực lớn mạnh, thường theo bảo vệ Phật. Trong các kinh sách Phật...

Vai trò nhập thế qua những biểu hiện, một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm phát huy vai trò của nữ Phật tử
Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân loại. Ở phương diện tích cực, chúng phục vụ nhiều nhu cầu, đem lại hiệu suất làm việc cao cho con người. Song ở phương diện tiêu cực, chúng khiến đời sống tinh thần đứng...

Các công chúa triều Trần với đạo Phật và chốn thiền môn
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Khi công chúa Thái Đường mắc lỗi, triều đình tịch thu điền trang của bà sung vào ruộng quốc khố. Bà bèn đi tu ở chùa Nghĩa Xá, gần Lạc Quần (Xuân Trường). Thời nhà Trần, đạo Phật được nhân dân Đại Việt rất coi trọng và tôn sùng. Các vua Trần từ Trần Thái...

Đóng góp của gia đình danh y Lê Hữu Trác đối với Phật giáo Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Với việc xây chùa Tượng Sơn, gia đình đại danh y Lê Hữu Trác có những đóng góp nhất định đối với Phật giáo Hà Tĩnh. Tượng Sơn tự cũng là nơi Hải Thượng Lãn Ông dành phần lớn thời gian lưu lại chùa để bốc thuốc, chữa bệnh cứu người và hoàn thành...

Nghiên cứu về một vài ngộ nhận đối với lịch sử phát triển Ni đoàn
Lịch sử, Nghiên cứu

TÓM TẮT Từ khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã cho phái nữ xuất gia thành Tỳ kheo Ni với điều kiện là thọ trì Bát kỉnh pháp. Có Ni giới, hàng xuất gia của Đức Phật được tăng đông lên. Tứ chúng của Đức Phật trở nên đầy đủ. Sự xuất hiện của...

Đức Từ Cung với sự phát triển và chấn hưng Phật giáo xứ Huế từ những năm 30 đến những năm 80 Thế kỷ XX
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Đức Từ Cung hay Đoan Huy Hoàng thái hậu không chỉ quan tâm chăm lo hương khói, cúng tế tổ tiên nhà Nguyễn, mà còn là một tín đồ thuần thành của Phật giáo. Trên cương vị Hoàng Thái hậu triều Nguyễn, bà Từ Cung đã có nhiều đóng góp trong công cuộc chấn...

Kiến trúc chùa Huế
Chùa Việt, Kiến trúc-Mỹ thuật, Nghiên cứu

Với lối kiến trúc đặc trưng nhưng vẫn nằm trong dòng chảy kiến trúc đặc trưng của những ngôi chùa Việt, chùa Huế thực sự đã tạo ra một dấu ấn đậm nét đối với khách thập phương. Với nét đặc trưng đó những ngôi chùa xứ Huế không chỉ góp phần làm phong phú cho...

Nét đẹp Chư Tăng trong mùa An cư Kiết hạ
Nghiên cứu, Văn hóa

Chúng ta sẽ cảm nhận được nét đẹp tuyệt vời, một nghệ thuật siêu việt của cái thiêng liêng được toát ra từ sâu thẳm trong tâm hồn của chư Tăng, Ni. Nét đẹp đó, được phát ra từ nội tại của những con người mang những hoài bảo, những lý tưởng hướng thiện và...

Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Của Chiếc Áo Cà Sa
Nghiên cứu, Văn hóa

Gốc tiếng Phạn của chữ cà-sa là kasaya. Nhưng thật sự chữ kasaya trong tiếng Phạn không có nghĩa là áo mà có nghĩa là bạc màu, cáu cặn hay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt), trọc hay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sa của người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèo nàn,...

Chùa Kim Cang trong mối quan hệ với dòng thiền Liễu Quán ở Tây Nam bộ
Kiến trúc-Mỹ thuật, Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Bài nghiên cứu tập trung vào hai nội dung chính, thứ nhất, tìm hiểu khái quát về lịch sử dòng thiền Liễu Quán mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam; thứ hai, đề cập lịch sử hình thành chùa Kim Cang. Đây là ngôi chùa cổ, có nhiều đóng góp trong quá trình...

Đức Phật nhà văn hóa lớn của nhân loại
Lịch sử, Nghiên cứu, Sự kiện, Văn hóa

Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là cuộc đời hoằng hóa và hệ thống giáo lý của Ngài đã cống hiến cho nhân loại nhiều đóng góp quan trọng và ý nghĩa. Nhà Phật học H.W. Schumann đã phát biểu về Đức Phật trong tác phẩm thời danh của Ông, nhan đề Đức Phật lịch sử (The Historical Buddha) rằng: “Rất hiếm nhân vật trong lịch sử tư tưởng nhân...

Về văn bản Sự ly dung thông
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715) là một tác gia văn học Phật Giáo thời Hậu Lê. Ngữ lục cho biết sư biên soạn, biên dịch được 20 tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm này đều viết theo hai thể chữ hán và Nôm, vừa dịch giải vừa biên soạn.  Trong số sách dịch...

Đóng góp của thiền phái Liễu Quán trong việc khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất phương Nam
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Từ khi xuất hiện cho đến khi tổ Thiệt Diệu Liễu Quán viên tịch, dòng thiền Liễu Quán được thắp sáng và lan tỏa chánh pháp bởi các đệ tử và các pháp tôn. Trong các thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XIX, Thiền phái Liễu Quán ra đời, phát triển và mở...

Tục Bầu Hậu Phật qua một số văn bia ở Thanh Hóa
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

DẪN NHẬP Bầu Hậu Phật, lập Hậu Phật là hoạt động văn hóa trong sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo ở làng xã nước ta trước đây. Người gửi hậu Phật có thể là do hoàn cảnh, nhu cầu và mục đích khác nhau, nhưng tựu trung, hoạt động này phản ánh tâm linh, tư...

Phổ hệ truyền thừa thiền phái Liễu Quán tại Khánh Hoà
Lịch sử, Nghiên cứu

Thiền phái Liễu Quán, một trong năm thiền phái của dòng thiền Lâm Tế có sự ảnh hưởng lớn ở nước ta. Trong dòng chảy lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế tại Việt Nam, Liễu Quán tuy ra đời muộn nhưng là dòng thiền có phạm vi rộng khắp bởi tính bản địa....