Vùng đất Quảng Nam trong lịch sử không chỉ được biết đến là một địa phương quan trọng về kinh tế và chính trị của Đàng Trong mà còn là trung tâm giao thoa văn hóa – tôn giáo đặc sắc của miền Trung Việt Nam.

Trước khi người Việt tiến vào khai phá, nơi đây là địa bàn của vương quốc Champa, vốn từng có truyền thống Phật giáo Đại thừa rực rỡ qua nhiều thế kỷ. Dấu tích của thời kỳ này còn được lưu lại qua những tháp cổ, những hiện vật điêu khắc và hình tượng Phật giáo trên đá sa thạch. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với sự suy vong của Champa và sự định cư của lưu dân Đại Việt, Phật giáo trên đất Quảng Nam dần mang diện mạo mới – vừa kế thừa tinh hoa cũ, vừa tiếp nhận sinh lực từ Phật giáo Việt Nam và các nhà sư Trung Hoa.

Kể từ thế kỷ XVI, quá trình Nam tiến của các chúa Nguyễn đưa nhiều cộng đồng Việt vào vùng đất mới, kéo theo nhu cầu lập chùa, tôn tượng, thỉnh Tăng và phát triển đời sống tâm linh. Hội An – thương cảng sầm uất thời bấy giờ – trở thành nơi tiếp nhận nhiều đoàn thương nhân và tăng sĩ từ Trung Hoa, Nhật Bản. Chính trong bối cảnh đó, dòng thiền Lâm Tế qua Tổ sư Nguyên Thiều đã được đưa vào Đàng Trong, mở ra một thời kỳ hưng thịnh mới cho Phật giáo miền Trung, trong đó Quảng Nam là vùng đất hưởng lợi trực tiếp từ ảnh hưởng ấy.

Tổ sư Nguyên Thiều, húy Siêu Bạch, hiệu Hoán Bích hay Thọ Tông, họ Tạ, sinh năm Mậu Tý (1648) tại huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Ngài xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Báo Tư, tu học dưới sự chỉ dạy của Hòa thượng Bổn Quả – Khoáng Viên, tiếp nối tông phong Lâm Tế, đời thứ 33. Từ thuở ban đầu đã thể hiện chí nguyện xuất trần, hoằng dương Phật pháp, Tổ sư sớm nổi danh về giới hạnh và đạo phong.

Năm Đinh Tỵ (1677), Tổ Nguyên Thiều rời Trung Hoa theo thuyền buôn đến Quy Nhơn, khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà – một trong những tổ đình Phật giáo quan trọng của Đàng Trong thời bấy giờ. Sau khi Thiền sư Hương Hải cùng đệ tử rời vào Đàng Ngoài, Phật giáo Đàng Trong thiếu người hướng dẫn, chúa Nguyễn Phúc Tần đã cung thỉnh Tổ Nguyên Thiều ra Thuận Hóa để hoằng pháp. Tại đây, Ngài khai sơn chùa Phổ Thành ở Hà Trung và chùa Vĩnh Ân (sau đổi thành Quốc Ân), trở thành trung tâm Phật giáo lớn dưới thời các chúa Nguyễn

Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Tần băng hà, chúa Nguyễn Phước Trăn kế vị, tiếp tục trọng dụng Tổ sư Nguyên Thiều. Chúa Nghĩa đã thỉnh Ngài sang Trung Hoa thỉnh thêm Tăng sĩ, kinh sách, pháp khí và tượng Phật để củng cố Phật giáo Đàng Trong. Chuyến đi này đã tạo bước ngoặt lớn, góp phần phục hưng và định hình sinh hoạt Phật giáo miền Nam Đại Việt vào cuối thế kỷ XVII.

Tuy không trực tiếp lưu trú lâu dài ở Quảng Nam, nhưng qua các đệ tử của mình, Tổ sư Nguyên Thiều đã gieo hạt giống Bồ đề trên vùng đất này. Đặc biệt, Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo, một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Ngài, đã khai sơn tổ đình Chúc Thánh tại Hội An. Từ đây, dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh ra đời, hòa quyện tinh hoa thiền học Trung Hoa và bản sắc Trúc Lâm Yên Tử, tạo nên một truyền thống tu học và hành đạo đặc thù của xứ Quảng.

Không chỉ dừng lại ở đó, các đệ tử khác như Thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương (chùa Thập Tháp Di Đà, Quy Nhơn), Thiền sư Minh Hằng – Tử Dung (chùa Từ Đàm, Huế), Thiền sư Thành Đẳng – Minh Lượng (chùa Vạn Đức, Quảng Nam), Thiền sư Minh Hằng – Định Nhiên (chùa Quốc Ân, Phú Xuân), cùng nhiều vị khác đã tiếp nối tông phong Lâm Tế, đưa Phật giáo lan tỏa khắp Đàng Trong, trong đó Quảng Nam là một trung tâm nổi bật.

Điểm đặc biệt của dòng thiền do Tổ Nguyên Thiều khai sơn là tính dung hợp và nhập thế. Không giữ nguyên lối tu “xuất thế” như thiền Trung Hoa, các thiền sư Lâm Tế Việt Nam vừa tu tập thiền định, vừa hành đạo giữa đời, kết hợp tinh hoa Thiền, Mật và Tịnh Độ, phù hợp căn cơ quần chúng. Nhờ vậy, Phật giáo không chỉ giới hạn trong cửa thiền mà còn gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa – xã hội của cư dân Quảng Nam qua nhiều thế kỷ.

Tổ sư Nguyên Thiều viên tịch vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) tại chùa Kim Cang (Đồng Nai), để lại di sản pháp học và pháp hành vô giá. Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh và Lâm Tế Liễu Quán – đều bắt nguồn từ pháp hệ của Ngài – hiện vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong sinh hoạt Phật giáo Quảng Nam. Từ hai dòng thiền này, nhiều thế hệ cao tăng đã nối tiếp nhau hoằng pháp, xây dựng chùa chiền, giáo hóa tín đồ, đóng góp vào sự phát triển của Phật giáo và công cuộc đoàn kết dân tộc.

Ngày nay, nhìn lại hành trình hơn ba trăm năm, dấu ấn Tổ sư Nguyên Thiều hiện hữu sâu đậm trong mọi nẻo sinh hoạt Phật giáo Quảng Nam. Hệ thống tổ đình, tòng lâm của thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh vẫn tỏa sáng uy nghiêm, là nơi quy tụ hàng vạn Tăng Ni, Phật tử. Nhiều bậc cao tăng như Hòa thượng Thích Thiện Dụng, Hòa thượng Thích Từ Nhơn, Hòa thượng Thích Như Điển, cùng nhiều bậc tôn túc khác đã và đang tiếp nối dòng thiền, duy trì mạng mạch Phật pháp. Không chỉ tu tập, hành đạo, các vị còn đóng góp lớn trong giáo dục, hoằng pháp, từ thiện xã hội, góp phần giữ gìn văn hóa và đạo đức truyền thống của xứ Quảng.

Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh, cùng với Lâm Tế Liễu Quán, hiện diện trong hầu hết các ngôi chùa lớn nhỏ trên địa bàn tỉnh, là dòng chảy tâm linh chủ đạo của Phật giáo Quảng Nam. Những giá trị mà Tổ sư Nguyên Thiều khởi xướng – tinh thần dung hợp Thiền, Mật, Tịnh và lý tưởng nhập thế – vẫn tiếp tục tỏa sáng, giúp Phật giáo hòa quyện vào đời sống dân tộc, đồng hành cùng đất nước trong mọi giai đoạn lịch sử.

Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, nhưng ngọn đèn tuệ mà Tổ sư Nguyên Thiều thắp sáng vẫn còn đó, soi rọi bước chân của những người con Phật trên đất Quảng Nam. Trong từng mái chùa cổ kính, trong tiếng chuông sớm chiều ngân vang, trong lời kinh tiếng kệ vang lên giữa mùa Vu Lan hay Phật đản, đều thấp thoáng bóng hình bậc Tổ sư khai sơn, bồi đắp và gìn giữ mạch nguồn Phật pháp. Ngài không chỉ là vị cao tăng khai đạo cho một thời đại mà còn là biểu tượng cho sự kiên định, trí tuệ và lòng từ bi – những giá trị đã làm nên sức sống bền bỉ của Phật giáo Quảng Nam suốt chiều dài lịch sử.

Thực hiện: Ths Huỳnh Thị Thu Thủy – Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

20 điều yếu tắc tòng lâm của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

20 điều yếu tắc tòng lâm của Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải: Kim chỉ nam cho Tăng Ni mọi thời đại Lời dẫn Trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa, Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 720–814)[1] được tôn vinh là một bậc đại tổ, nổi tiếng không chỉ bởi hạnh tu mà còn bởi việc thiết lập...

Tư tưởng Phật giáo thời Lý – Trần trong dòng chảy lịch sử Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Những tư tưởng nhập thế, nhân đạo, những tư tưởng trong giáo lý của đạo Phật… đã từng bước thấm nhuần trong lòng con dân thời Lý – Trần nói riêng, cũng như dân tộc Việt nói chung I. Đặt vấn đề Dân tộc Việt Nam tự hào về ý chí quật cường, tinh thần bất...

Quá trình hình thành Đại Tạng Kinh Phật Giáo
Lịch sử, Nghiên cứu

Biên dịch từ Buddhist Books and Texts của Lewis R. Lancaster trong Encyclopedia of Religion; Lindsay Jones, Ed. Vol II. Thích Nhuận Châu biên dịch DẪN NHẬP Sự xuất hiện của truyền thống Đại thừa (Mahāyāna) vào khoảng đầu Tây lịch đã đem lại một nguồn năng lượng sáng tạo văn học dồi dào trong Phật giáo. Căn cứ trên...

Đóng góp của Phật giáo Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1954)
Lịch sử, Nghiên cứu

Như vậy, Phật giáo ở Nam Bộ với cá nhân Tăng ni, Phật tử, với tư cách tổ chức đã tích cực tham gia Cách mạng Thánh Tám (1945) cuộc đấu tranh chống xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975). 1. Khái quát về vùng dất Nam Bộ và Phật giáo ở...

Lịch sử Phật giáo Thủ đô Hà Nội thời kỳ Bắc Thuộc
Lịch sử, Nghiên cứu

Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo Hà Nội (Đại La) đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy văn hóa Việt, giúp duy trì các lễ hội, nghi lễ và giáo lý Phật giáo qua các ngôi chùa. 1. Bối cảnh lịch sử và văn hóa Hà Nội 1.1....

Tín ngưỡng thờ phụng đức Phật Dược Sư thời nhà Đường
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Việc thiết lập đàn tràng và tu trì đức Phật Dược Sư trở nên quan trọng hơn dưới thời trị vì của vua Đường Túc Tông, thời kỳ triều đình nhà Đường phải vật lộn để vượt qua thách thức do những cuộc nổi dậy của quân đội trong nước gây nên… Tín ngưỡng thờ...

Phật giáo Việt Nam và sự dung hợp tam giáo thời Trần
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Có thể thấy, Phật giáo – Nho giáo và Đạo giáo đã có sự dung hòa, bổ sung cho nhau để cùng hướng đến xây dựng đời sống tinh thần và đời sống nhân văn cho xã hội. Dẫn nhập  Trong lịch sử Việt Nam, ba tôn giáo Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo...

Bảo Vệ Nhân Phẩm Khỏi Mối Đe Dọa Của Chủ Nghĩa Hư Vô Đạo Đức
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Tại Việt Nam, trong Ngày Vesak Quốc tế của Liên hợp quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 5, Thượng tọa Bhikkhu Bodhi đã có bài phát biểu quan trọng vào ngày 6 tháng 5. Chủ đề của bài phát biểu: “Bảo vệ Nhân phẩm khỏi Mối đe dọa của Chủ nghĩa hư vô đạo đức”. Trong bài phát biểu kết thúc, ngài tập trung vào Gaza...

Đặc điểm nghệ thuật tạo tác tượng Phật giáo ở Việt Nam
Kiến trúc-Mỹ thuật, Nghiên cứu

Nghệ thuật tạo tác tượng Phật giáo ở Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa triết lý Phật giáo và bản sắc văn hóa dân tộc, phản ánh sâu sắc đời sống tâm linh và thẩm mỹ của người Việt qua các thời kỳ lịch sử.  A. Dẫn nhập Từ bao đời nay, Phật...

Thiền phái Trúc lâm Yên tử là bước ngoặt phát triển Phật giáo thời Trần
Lịch sử, Nghiên cứu

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc và mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam, kỷ nguyên độc lập và phát triển. Đến đầu thế kỷ XIII, đặc biệt là thời đại nhà Trần, không những độc lập dân tộc, tự chủ về đời sống kinh...

Nhìn lại nguyên nhân suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ
Lịch sử, Nghiên cứu

Phật giáo trải qua trên một ngàn năm ở Ấn Độ, tuy nhiên vẫn còn chưa biết đến điều gì đưa đến sự biến mất của Phật giáo khỏi vùng đất đã khai sinh ra đạo Phật. Nhiều học giả đã nỗ lực nghiên cứu bí ẩn này. Tuy nhiên, vì không đủ chứng cứ...

Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của Phật giáo
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Dẫn nhập: Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng của Người là kho tàng tri thức vô giá, có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tôn giáo. Hồ Chí Minh đã dành nhiều sự quan...

Thiền phái Tào Động ở miền Bắc Việt Nam với những đóng góp cho đạo pháp và dân tộc
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Sau khi đệ nhất Tổ sư Thiền phái Tào Động – ngài Thủy Nguyệt truyền vào xứ Đàng Ngoài, đệ nhị Tổ Tông Diễn đã khai hóa triều đình, giải trừ ách nạn của Phật giáo thời nhà Lê ở xứ Đàng Ngoài. Đến nay, thiền phái Tào Động dần thâm nhập vào mọi tầng...

Hình tượng Quán Thế Âm trong các truyền thống Phật giáo
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Thế giới ngày càng phát triển, những giá trị vật chất có thể làm con người quên đi bản chất thật sự của hạnh phúc. Nhưng nếu biết quay về với tâm từ bi, học theo hạnh nguyện của Quán Thế Âm, chúng ta sẽ tìm được sự bình yên trong cuộc sống. Mở đầu: Quán...

Tâm linh qua góc nhìn Khoa học và Tôn giáo
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm. Với không ít người, khi nói đến “tâm linh”, người ta cho rằng đó là một cụm từ mang tính đe dọa và đáng sợ. Thế...

Chúa Nguyễn và sự hình thành hệ thống chùa làng ở Đàng Trong (1558-1777)
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Chùa làng ngoài việc đáp ứng nhu cầu thực hành Phật giáo của người dân, còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp người dân tái cố kết cộng đồng, ổn định cuộc sống trong quá trình khai hoang, lập làng lập ấp. Tóm tắt Trong quá trình Nam tiến, Phật giáo theo chân...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.