Tóm tắt: Mục đích trong tu tập là giải thoát, muốn giải thoát, phải diệt được vô minh. Vậy, vô minh trong triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần được hiểu như thế nào? Làm sao để diệt được vô minh?

Phân tích văn bản ta thấy vô minh ở nhận định của Trần Thái Tông là vọng, niệm; ở Tuệ Trung Thượng sĩ, vô minh là huyễn hóa phân thành nhị kiến; còn ở Trần Nhân Tông, vô minh là phân biệt kén chọn. Như vậy, muốn giác ngộ, muốn trở về với bản thể là phải đạt đến tâm vô niệm ở Trần Thái Tông; tâm vong nhị kiến, diệt trừ được nhị kiến, phá chấp vào biên kiến ở Tuệ Trung Thượng sĩ, tâm không còn phân biệt kén chọn ở Trần Nhân Tông.

Từ khóa: Vô minh, Phật giáo thời Trần, giác ngộ, phân biệt, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ…

Tôn tượng đức Phật hoàng Trần Nhân Tông tại Yên Tử, Quảng Ninh – Ảnh: Minh Nam

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya), cụ thể là trong Kinh Rohitassa, đức Phật nói: “Này các Tỷ-kheo, cũng như nước biển lớn chỉ có một vị – đó là vị mặn; cũng vậy, giáo pháp và giới luật này chỉ có một vị – đó là vị giải thoát”. Đích cuối cùng trong Phật giáo là phải đạt đến sự giải thoát, muốn giải thoát, phải diệt được vô minh; bởi thế, nhận thức về vô minh và diệt vô minh là vấn đề căn cốt trong Phật giáo.

Vô minh (Avijjà) là không sáng suốt, không hiểu biết, mê mờ, tăm tối, mê muội, vọng tưởng; cụ thể không hiểu biết như thật về hiện hữu, về sự vật hiện tượng, về vạn pháp. Vì không hiểu biết nên hành động sai lầm, dẫn đến tham, sân, si và dẫn đến đau khổ.

Trong Thập nhị nhân duyên, vô minh như mắt xích đầu tiên? Có lẽ vô minh là điểm phân biệt giữa Phật và chúng sinh, người giác ngộ và người chưa giác ngộ. Diệt trừ được vô minh là người giác ngộ, còn vô minh thì vẫn là chúng sinh.

Khi chưa diệt được vô minh, chúng sinh vẫn còn ngụp lặn trong vòng luân hồi sinh tử, trôi lăn trong lục đạo theo luật nhân quả. Vòng nhân quả này cứ tiếp tục mãi tạo ra chính báo (thân ta) và y báo (cảnh bên ngoài). Cảnh sở dĩ có là có một cách tương đối với thân ta. Khi nghiệp nhân biến đổi thì nghiệp quả cũng biến đổi, do đó chính báo và y báo cũng biến đổi theo. Khi tạo nghiệp nhân làm người thì đời sau đầu thai lại làm người, chính báo (thân người), y báo (cảnh) vẫn như con người đã nhận thấy. Nhưng nếu tạo nghiệp dữ thì chính báo đời sau có thể là loài súc sinh hay ngạ quỷ (chẳng hạn con bò) và y báo – thế giới xung quanh (dưới mắt con bò) cũng không còn giống như cảnh giới đối với người (dưới mắt con người), nghĩa là vũ trụ vạn hữu biến đổi theo tầm mắt và sự hiểu biết của từng loài khác nhau. Thuyết nghiệp cảm duyên khởi cho rằng nghiệp thế nào thì cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Do nghiệp mà có thân có cảnh. Thân cảnh tốt xấu là do nghiệp lành dữ. Nhưng còn nghiệp là còn hiện tượng giới. Dứt trừ được nghiệp là trở về Chân như, nhập Niết bàn. Mà dứt trừ được nghiệp, tức diệt được vô minh, do đó diệt được vô minh là mục đích tối thượng của Phật giáo. Còn vô minh tức còn nghiệp lực. Sau khi chết, ngũ uẩn tan ra, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng nghiệp dẫn dắt cái gì? Trong Phật giáo nguyên thuỷ gọi là kiết kinh thức, Phật giáo Tây Tạng gọi là thần thức. Nhưng lục thức, ý thức sinh diệt vô thường. Bởi vậy, Đại thừa sơ khởi phát triển, bổ sung thêm hai thức nữa là Manas (mạt na thức) và Alaya (A lại da thức). Manas chủ ở thấy biết, tự nhận có cái ngã giữ gìn. Nhưng làm sao giữ được cái giả ngã trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sinh diệt vô thường. Vậy phía sau Manas tất phải có cái thức khác thường, chùm chứa mầm mống, chủng tử của các pháp.

Đó chính là Alaya (tạng thức), công năng là thu nhiếp, tàng trữ và sinh khởi các pháp. Gây nghiệp tức chủng tử ghi lại, dồn chứa vào Tạng thức, đủ nhân duyên thì những chủng tử (mầm mống) đó phát ra hiện hành. Chẳng hạn, người có mầm tham, không có điều kiện ăn trộm cứ tưởng mình là lương thiện, vì chưa đủ nhân duyên để cái tham phát sinh. Khi thân thể xuất hiện, Alaya đã bao hàm mầm của vạn pháp (vạn vật). Thế giới bên ngoài thiên sai vạn biệt là do Alaya tác động mà ra.

Alaya là căn bản của hiện tượng giới, từ vô thuỷ bao trùm chủng tử. Chủng tử và hiện tượng giới làm nhân quả cho nhau trong vòng luân hồi.

Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Trần quan niệm như thế nào về vô minh. Từ vô minh đến cách diệt vô minh của Phật giáo như thế nào? Trong Phật giáo thời Trần, ta chỉ hạn chế ở ba nhà tư tưởng tiêu biểu, đó là Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần Nhân Tông. Ở Trần Thái Tông, vô minh là vọng, niệm; còn ở Tuệ Trung Thượng sĩ, vô minh là huyễn hoá phân thành nhị kiến; ở Trần Nhân Tông, vô minh là phân biệt kén chọn. Trần Thái Tông viết:

“Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không. Thị vọng tòng không, không hiện vọng, vọng sinh chúng sắc” (1). Từ cái không tuyệt đối mà khởi lên vọng tức vô minh (không sáng, mờ tối, mê muội, xuyên tạc, sai lệch) nguyên thuỷ. Vô minh nguyên thuỷ này theo bản thể (không) cũng là vọng tòng không, không hiện vọng. Vọng thành sắc hay vọng sinh chúng sắc, cũng có nghĩa là từ vô minh mà sinh ra thế giới hình danh sắc tướng. Cái vô minh này nảy sinh ra từ không (không phải trống không), sau đó sinh ra thế giới hình danh sắc tướng, trong đó có cả chúng sinh. Nhấn  mạnh điều này, Trần Thái Tông viết: “Chúng sinh ảo cấu tòng vọng nhi sinh” (chúng sinh huyễn ảo do vọng mà sinh) (2); hay “Vọng bào miết khởi, uế thổ hiện thành”. Cần phân biệt vô minh nguyên thuỷ với vô minh có ở trong mỗi con người hiện đang tồn tại. Ở đây vọng hay vô minh là mắt xích đầu tiên trong “thập nhị nhân duyên”. Vậy vô minh là gì? Chúng ta không thể nói đó là thực tại bất biến vì nó có thể bị xoá bỏ. Nhưng cũng không phải là không có. Theo nghĩa đen “vô” là không, “minh” là sáng, “vô minh” nghĩa là không sáng, mờ tối, tối tăm, mê muội, không hiểu biết đúng quy luật vận hành của vạn pháp.

Trần Thái Tông: nếu “vọng” là nguyên nhân xuất hiện thế giới hiện tượng, xuất hiện chúng sinh, thì “niệm” là nguyên nhân xuất hiện cái “tôi”, con người cá nhân. “Niệm” ở đây cũng có hai nghĩa. Khi nói về nguyên nhân xuất hiện các cá nhân, nó có nghĩa gần giống như hành (tức là nghiệp). Trong “Thập nhị nhân duyên”, mắt xích thứ hai sau vô minh là hành. Theo nghĩa này, Trần Thái Tông viết: ”Cái do niệm khởi duyên hội, ngũ uẩn hợp thành, thể mạo vong sinh, hình dung giả xuất” (3). Ở đây chính là làm rõ, cụ thể hoá việc vọng biến thành sắc, vọng sinh chúng sắc như thế nào. Nghĩa thứ hai của “niệm” là nhớ, nghĩ (tưởng). Trần Thái Tông viết: “Niệm dậy tưởng hành”(4) (ở đây cụ Đào Duy Anh dịch là ”Niệm dậy ý sinh” thực sự chưa được chính xác cho lắm, bởi lẽ chữ ”ý” và chữ ”tưởng” trong Phật giáo là khác nhau). Bởi vậy, mục đích cuối cùng của thiền định trong triết học của Trần Thái Tông là thủ tiêu niệm (nghiệp) và đạt tới cái tâm vô niệm (không nhớ nghĩ, tức không tạo nghiệp). ”Thuỳ vô niệm thuỳ vô sinh” (ai không có niệm thì không có sinh, tức tránh được nghiệp, vượt qua vòng tuần hoàn luân hồi sinh tử).

Còn ở Tuệ Trung, từ không (hay vô) xuất hiện huyễn hoá (ảo hoá hay vô minh) phân thành nhị kiến. Ông viết:

”Thân tòng vô tướng bản lai không

Huyễn hoá phân sai thành nhị kiến” (5).

Như vậy, xuất hiện vô minh cũng tức là xuất hiện nhị kiến, có nhị kiến là do vô minh, thủ tiêu nhị kiến thì vô minh tự diệt. Từ đó nhiệm vụ quan trọng, trong thiền học của Trần Thái Tông là thủ tiêu niệm, còn ở Tuệ Trung là thủ tiêu nhị kiến (vong nhị kiến). Do nhị kiến mà xuất hiện sinh tử, phàm thánh, mê ngộ, chân vọng, phiền não Bồ đề, Pháp thân sắc thân, không có, đốn tỉnh, sắc không, phải trái, hồng lục, qua lại, sau trước, được mất, trọc thanh, thị phi, tâm cảnh, tốt xấu, thiện ác,… Từ nhị kiến này mà xuất hiện mọi thứ, chẳng hạn như cái nhìn thiên lệch, xuất hiện tha ngã bỉ thử. Từ tha ngã, tâm cảnh mà xuất hiện kiến giải. Nhưng do nhị kiến nên kiến giải cũng có tính chất nhị kiến, tức kiến giải một cách thiên lệch. Và nếu lấy kiến giải để trình bày kiến giải thì đã thiên lệch lại càng thiên lệch, càng rối bời, càng kỳ quái. Điều đó chẳng khác nào như ấn ngón tay vào mắt để nhìn ra thế giới xung quanh. Theo nghĩa đó, Thượng sĩ viết:

”Kiến giải trình kiến giải

Tự niết mục tác quái” (6)

Với con mắt nhị kiến như vậy, không khỏi nhìn chuông hoá hũ sành (vi miễn hô trung ủng tác khan).

Tượng vua Trần Thái Tông - Ảnh: Sưu tầm
Tượng vua Trần Thái Tông – Ảnh: Sưu tầm

Để diệt nhị kiến (vong nhị kiến) Thượng sĩ đã đưa ra phương pháp phá chấp vào biên kiến. Có người hỏi, trong giáo lý nói ”sắc tức thị không, không tức thị sắc” ý nghĩa thế nào? Ở đây người hỏi chấp vào kinh sách mà cho sắc là không, không là sắc. Để đập tan cái chấp này, Thượng sĩ trả lời: sắc bản vô không, không bản vô sắc (sắc vốn chẳng phải không, không vốn không phải sắc). Và ông giải thích thêm, câu trong giáo lý nói riêng này và kinh điển nói chung chỉ là phương tiện, ”Ba đời chư Phật quyền biến đặt” ra để dẫn dắt chúng sinh tới bờ bến giác. Muốn giác ngộ phải phá chấp và Thượng sĩ dùng hình ảnh.

Đừng gánh nặng hai vai

Mới qua cầu khỉ được.

Muốn giác ngộ phải trực nhận bản thân mình, đừng có dựa vào người khác (hưu ỷ tha môn hộ), phải đích thực mìnhăn (cơ san chỉ nhữ san). Muốn đi đến giác ngộ, tức muốn đi tới chân lý tối hậu, theo Thượng sĩ, phải vượt lên trên nhị kiến, phải có tâm hồn như trẻ thơ (đồng tử) không thiên không lệch.

”Ví bằng quên nhị kiến

Pháp giới thảy bao dung”

(Đãn năng vong nhị kiến

Pháp giới tận bao dung) (7)

Ngay tâm mình cũng vậy, phải xả bỏ hết, nhất là vọng niệm, không vướng một mảy may suy nghĩ (Tâm cơ bấtquải ti hào niệm), vì còn chút niệm là vẫn luân hồi theo lục đạo (hào ly niệm lục đạo kế nhân). Ở đây ta thấy Tuệ Trung lại quay lại niệm như Trần Thái Tông.

Trần Nhân Tông cho rằng ”Bản tính lặng im trong trẻo, không thiện ác.” (Bản tính trạm ngưng, vô thiện ác.)(8). Trần Thái Tông cho rằng bản tính sâu trầm, chân tâm trong lặng (bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm tịch). Rõ ràng vế đầu chỉ khác nhau ở chữ ”huyền” và chữ ”trạm”. Tuệ Trung Thượng sĩ cho rằng thể tính vằng vặc chưa từng có mê lầm (thể tính minh minh vị hữu mê). Như vậy, ở Trần Thái Tông, bản tính sâu trầm trong lặng; ở Thượng sĩ, thể tính vằng vặc chưa hề có mê lầm; ở Nhân Tông, bản tính lặng yên trong trẻo. Thực ra, tuy diễn đạt có khác nhau nhưng tư tưởng của ba vị chỉ là một. Nếu ở Thượng sĩ, bản thể vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị nguyên, vô thị vô phi, vô hồng vô lục, vô khứ vô lai, vô hậu vô tiền, phi hư phi thực, phi chủng phi manh, phi trần phi cấu, thì ở Nhân Tông, bản thể cũng như vậy, bản thể không thiện không ác, không sinh không diệt, chẳng đi chẳng lại.

Điểm khác giữa Trần Nhân Tông với Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ có lẽ là ở quan niệm về nguồn gốc xuất hiện thế giới cảm tính, xuất hiện dường mối, xuất hiện hiện hữu. Ở Thái Tông từ không khởi vọng (tức vô minh); vọng xét trên bình diện nhân sinh cũng chính là Niệm. Bởi vậy vấn đề là phải thủ tiêu vọng niệm và đạt đến tâm vô niệm, tức đạt đến giải thoát (thuỳ vô niệm, thuỳ vô sinh).

Ở Thượng sĩ, từ không (hay vô) xuất hiện huyễn hoá (ảo hoá hay vô minh), phân thành nhị kiến. Như vậy, xuất hiện vô minh cũng tức là xuất hiện nhị kiến, thủ tiêu nhị kiến tức vô minh tự diệt.

Nhân Tông ít bàn đến bản thể không. Ông hầu như cũng ít đề cập đến nguồn gốc xuất hiện thế giới hiện tượng. Ông chỉ nói: ”Chỉ vì phân biệt kén chọn, nên sinh ra lắm mối nhiều dường” (Lương do liệu giản, hoành xuất đa kỳ). Như vậy nguồn gốc những dường mối, mọi cái trong thế giới hiện tượng này là do phân biệt kén chọn.

Trước đó, Thái Tông cũng cho rằng: ”Hữu sai nhất niệm, cố hiện đa đoan”. Ở Thái Tông, cái đa đoan, muôn hình nghìn vẻ có nguyên nhân, nguyên do ở một niệm sai lầm xuất hiện; còn ở Nhân Tông, cái dường mối sinh ra là do phân biệt kén chọn. Phải chăng những cái này thực sự khác nhau? Đi sâu vào phân tích ta thấy, phân biệt kén chọn cũng là nhị kiến, có nhị kiến tức có sự kén chọn phân biệt, nếu vong nhị kiến tức không còn đối đãi phải trái, trên dưới, trước sau, tốt xấu, lành dữ, thiện ác, nhiễm sạch, thì làm gì còn phân biệt kén chọn nữa. Ở điểm này, Nhân Tông tiếp thu trực tiếp ở người thầy là Thượng sĩ. Nhưng suy cho cùng thì nhị kiến, vọng niệm cũng chính là vô minh. Tâm vô minh thì ta ngã, bỉ thử, tâm cảnh, Phật tâm xuất hiện. Còn tâm ngộ thì ta cũng không, người cũng không, tâm cũng không, cảnh cũng không, chân cũng được, giả cũng được. Ở đây, nhìn bề ngoài ta thấy Thiền Tông đi ngược lại Phật giáo nguyên thủy, song đi sâu vào bản chất thì thấy không có gì mâu thuẫn, mà thống nhất với nhau. Đó là điểm riêng trong triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần.

Tác giả: GsTs Nguyễn Hùng Hậu

Tạp chí Nghiên cứu Phật học – Số tháng 11/2025


Chú thích:

(1) Trần Thái Tông. Khoá hư lục. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1974, tr. 122

(2) Thơ văn Lý-Trần. Tập II. Quyển Thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 156

(3) Thơ văn Lý-Trần. Tập II. Quyển Thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 53

(4) Thơ văn Lý-Trần. Tập II. Quyển Thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 20

(5) Thơ văn Lý-Trần. Tập II. Quyển Thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 285

(6) Thơ văn Lý-Trần. Tập II. Quyển Thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 255

(7) Thơ văn Lý-Trần. Tập II. Quyển Thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1988, tr. 288-289

(8) Trần triều dật tồn Phật điển lục. Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ. Hà Nội 1943. Phần Thiền đạo yếu học. Tờ 37B.

Tài liệu tham khảo:

1] Nguyễn Hùng Hậu. Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông. Nxb. Khoa học xã hội; H. 1996

2] Nguyễn Hùng Hậu. Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội; H. 1997

3] Nguyễn Hùng Hậu. Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội; H. 2002

4] Nguyễn Hùng Hậu. Triết lý trong văn hóa phương Đông. Nxb. Đại học Sư phạm. Hà Nội 2004.

5] Nguyễn Hùng Hậu. Đại cương lịch sử triết học Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 2010.

6] Nguyễn Hùng Hậu. Minh triết Phật giáo Việt Nam và một số vấn đề triết học Phật giáo đương đại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2024

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Tức giận là gì? Góc nhìn Phật học và con đường chuyển hóa
Luận, Phật học

Trong đời sống thường nhật, không ai tránh khỏi những phút giây nóng nảy: một lời nói trái ý, một hiểu lầm nhỏ trong gia đình, hay những bất công khiến tâm bất an. Tức giận là cảm xúc rất thật, rất người. Nhưng trong ánh sáng Phật pháp, sân hận lại được xem là...

Hãy Tỏ Ra Mình Là Phật Tử
Luận, Phật học

Đây là những lời tha thiết chúng tôi muốn được đến tận tai, vào tận lòng toàn thể các vị Phật tử tại gia. Chúng tôi mong được tiếng vang dội của quý vị đáp lại lòng chân thành của nó. Trước hết, chúng tôi xin quý vị hãy thẳng thắn tỏ ra mình là Phật tử trong bất cứ trường hợp nào. Chúng tôi cũng biết rằng tiếp xúc với người mà tỏ ra mình là Phật tử, thì có lắm khi thế là một bức màn đã...

Giác Hải Vô Biên, Hồi Đầu Tức Thị Bỉ Ngạn
Luận, Phật học

Giác Hải Vô Biên, Hồi Đầu Tức Thị Bỉ Ngạn 覺海無邊回頭即是彼岸 Đời người là một cuộc hành trình dài, nhưng lại ngắn ngủi đến không ngờ. Ta khởi đi từ đâu và đích đến là đâu? Câu hỏi ấy không cần ở đâu xa, mà cần sự hồi quang (quay lại nhìn) vào chính tâm...

So Sánh Trung Đạo Và Trung Quán
Luận, Phật học

Sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già Uruvela, một địa danh gần Bodh Gaya ngày nay, thân thể Đức Phật tiều tụy đến mức người ta tưởng Ngài đã chết. Ngài từng chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo mỗi ngày, ngồi thiền giữa giá lạnh, không tắm rửa, không nói chuyện. Ngài hy vọng bằng cách hành hạ thân xác, sẽ đạt được giác ngộ....

Tu tập Bốn như ý túc
Kinh, Phật học

Đức Phật không dạy đệ tử mù quáng tin, ngay cả các tầng định khi thiền, mà luôn yêu cầu tự quán sát, tự chứng nghiệm, tránh rơi vào cực đoan tín ngưỡng. Phần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung Chuyển “Có bốn như ý túc...

Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận
Luận, Phật học

Qua Trung Quán Luận của Long Thọ giới thiệu rõ, sự ra đời, văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết học tư tưởng Trung đạo, kết cấu của Trung Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song cách phân chia kết cấu có khác nhau… Long Thọ (Nagarjuna)...

Phật thuyết nhất thiết Như Lai danh hiệu Đà La ni kinh
Kinh, Phật học

Hán dịch: Pháp Hiền Đại Sư phụng chiếu dịch Việt dịch: Cư sĩ Nguyện Huy dịch sang Việt văn Hòa thượng Thích Như Điển chứng nghĩa Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại Pháp dã đại Bồ Đề Đạo tràng ở nước Ma Già Đà. Khi vừa thành Chánh giác, có các chúng Bồ...

Phật thuyết kinh ‘Làm con năm người Mẹ’
Kinh, Phật học

Dẫn nhập “Một vật sinh ra, cái gì đích thân cho nó cường lực, đó gọi là Nhân; cái gì thêm thắt nhược lực vào thì gọi là Duyên” Phải chăng Đại tạng kinh Nam (cảo bản) lâu nay khép mình chùa Long Sơn Nha Trang, từ khi Hòa thượng Đỗng Minh thuận thế vô...

Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên
Luật, Phật học

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ...

Bản thể luận Phật giáo trong kinh A Di Đà
Kinh, Phật học

Cũng vậy, Thực tướng hay bản thể tối hậu trong kinh A Di Đà chính là một chỉnh thể bao gồm cả tính không (bản thể) và tính có (hiện tượng). Hai mặt mày là cùng một thể không tách rời. Trong hệ thống tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa, bản thể luận...

Giới thiệu kinh Kim Cang
Kinh, Phật học

GIỚI THIỆU KINH KIM CANG Edward Conze Dịch Việt: Nhuận Châu từ Vajracchedikā Prajñāpāramitā do Edward Conze biên tập và phiên dịch Vấn đề văn bản Bản kinh được in trong ấn bản nầy chủ yếu là của Max Müller.[1] Tôi có ghi thêm phần phân bổ trang của ông trong dấu ngoặc vuông,[2] để người đọc có...

Hạnh Phúc Bởi “Không”
Luận, Phật học

Trong dòng chảy hối hả của cuộc đời, hầu như ai cũng từng tin rằng hạnh phúc là phải “có thật nhiều”, mà quên mất rằng chính cái “Có” ấy lại là ngọn nguồn của muộn phiền. Chúng ta mặc định rằng, hạnh phúc là khi mình “Có”: có một căn nhà khang trang, có chiếc xe sang trọng, có thật nhiều tiền bạc,...

Khái niệm Phật độ qua kinh điển
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP Ngược dòng lịch sử Phật giáo Ấn Độ, có lần Đức Phật được hai anh em xuất thân trong dòng Bà-la-môn tên là Yameru và Tekula vì ngưỡng mộ giáo lý của Phật họ đã xuất gia làm Tỳ kheo. Họ cho rằng truyền bá giáo lý vi diệu thù thắng của Phật...

An Cư Kiết Hạ Theo “Tứ Phần Luật”
Luật, Phật học

An cư là chế định quan trọng trong đời sống tu tập của Tăng đoàn Phật giáo, giúp tăng sĩ ổn định tinh thần và thân thể để chuyên tâm tu học. Trong Tứ phần luật và các bộ luật Phật giáo nguyên thủy, an cư thể hiện sự quy củ, thanh tịnh của tăng...

Giới luật cư sĩ trong kinh điển Pali
Luật, Phật học

Giới luật dành cho người cư sĩ trong kinh điển Pāli, đặc biệt được làm rõ trong kinh Sigālovāda và được soi sáng bởi các nguyên lý như trung đạo, tâm từ, nghiệp và tinh tấn, không chỉ đơn thuần là những quy tắc đạo đức khô khan. Tóm tắt: Bài viết này khảo sát nền...

Sáu điểm tương đồng và hai điểm khác biệt trong ba bộ Kinh Tịnh Độ
Kinh, Phật học

Ba bộ Kinh Tịnh Độ là những bản kinh nền tảng của Tịnh Độ tông, một pháp môn Phật giáo quan trọng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, với mục đích duy nhất là dẫn dắt chúng sinh phát nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.