Bát quan trai là pháp tu tập sự xuất gia một ngày một đêm cho hàng cư sĩ. Điểm đặc biệt của pháp tu này có từ thời Thế Tôn còn tại thế, duyên khởi từ nữ cư sĩ Visākhā cầu thọ giới, và hiện vẫn duy trì trong cả hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông.
Hàng cư sĩ do gia duyên ràng buộc, mỗi tháng vào các ngày trai giới tìm đến trụ xứ của chư Tăng phát nguyện thọ giới, tu tập theo hạnh nguyện xuất gia để trau dồi phước đức, tiến tu đạo hạnh. Nhờ thân cận với chư Tăng, thọ trì giới pháp, thanh tịnh thân tâm mà được phước quả vô lượng.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Ta sẽ nói về pháp Bát quan trai Hiền Thánh, các thầy khéo suy nghĩ ghi nhớ, tùy hỷ vâng làm.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy.
Thế Tôn bảo:
– Thế nào gọi là pháp Bát quan trai? Một là không sát sanh. Hai là không trộm cắp. Ba là không dâm. Bốn là không vọng ngữ. Năm là không uống rượu. Sáu là không ăn phi thời. Bảy là không nằm giường cao rộng. Tám là xa lìa hát xướng, hương hoa xoa thân.
Này Tỳ-kheo! Đó là pháp Bát quan trai Hiền Thánh.
Khi ấy, Ưu-ba-ly bạch Phật:
– Làm thế nào tu hành pháp Bát quan trai?
Đức Phật bảo:
– Ở đây, này Ưu-ba-ly! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn vào các ngày mùng tám, mười bốn, rằm, đến chỗ các Sa-môn, hoặc Tỳ-kheo Trưởng lão, tự xưng tên, từ sáng đến chiều, như A-la-hán, giữ tâm không thay đổi, không lay động, không dùng dao gậy với quần sanh, lòng từ khắp tất cả. ‘Nay ta thọ trai pháp, không phạm một điều, không khởi tâm sát, tập theo lời dạy của bậc chân nhân, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời, không nằm giường cao rộng, không tập hát xướng đánh đàn, hoa hương xoa thân’.
Nếu người có trí tuệ, nên nói như thế; nếu người không trí tuệ, nên dạy họ như thế.
Lại, Tỳ-kheo kia nên chỉ dạy cặn kẽ, đừng để mất, cũng chớ vượt thứ lớp. Lại nên dạy họ phát thệ nguyện.
Ưu-ba-ly bạch Phật:
– Nên phát nguyện thế nào?
Phật bảo:
– Người kia phát nguyện rằng: Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không rơi vào chỗ bát nạn, không ở biên địa, không rơi chỗ hung ác, không theo ác tri thức; thờ phụng cha mẹ, chuyên chánh không tập tà kiến, sanh vào trung tâm của quốc gia, nghe pháp lành này, phân biệt suy nghĩ, thành tựu từng pháp; đem công đức giữ gìn trai pháp này, nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sanh; đem công đức này bố thí người ấy, khiến thành đạo Vô thượng Chánh chơn; đem phước báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa khiến không thối chuyển nửa chừng”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 43.Thiên tử Mã Huyết [1.trích], VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.146)
Lời bàn:
Trọng tâm của pháp tu Bát quan trai là thọ trì tám giới cao quý của bậc Thánh. Hành giả tham dự khóa tu cần phát nguyện: “Nay ta thọ trai pháp, không phạm một điều, không khởi tâm sát, tập theo lời dạy của bậc chân nhân, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời, không nằm giường cao rộng, không tập hát xướng đánh đàn, hoa hương xoa thân”. Nhân giới mà sinh định, nhờ định mà phát tuệ, thành tựu vô lượng công đức.
Tu tập Bát quan trai tuy thời hạn chỉ một ngày một đêm nhưng phước quả thật không thể nghĩ bàn. Kinh Tăng chi bộ, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, ngày trai giới nếu thành tựu tám chi phần, thời có được quả lớn? Như thế nào là quả lớn? Như thế nào là lợi ích lớn? Này các Tỳ-kheo, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông nào thực hành trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi mạng chung được sanh lên cộng trú với chư Thiên ở các cõi trời Tứ thiên vương, trời Tam thập tam, trời Dạ ma, trời Đâu suất, trời Hóa lạc và trời Tha hóa tự tại”.
Quảng Tánh