Hầu hết các bộ Luật đều giống nhau về duyên khởi an cư, đó là xuất phát từ việc than phiền của các người cư sĩ tại gia đối với nhóm sáu Tỷ-kheo[1] , nhóm này thường xuyên du hành không ngừng nghỉ trong dân gian bất cứ mùa nào, kể cả mùa mưa, khiến dẫm đạp làm tổn thương vô số côn trùng và cây cỏ, từ đó Phật chế định ba tháng an cư. Tuy duyên khởi an cư được hiểu đơn giản là sự tùy thuận của Thế Tôn theo ước muốn của cư sĩ tại gia nhưng sâu xa có nhiều tầng ý nghĩa khác nữa.

Theo Yết-ma yếu chỉ[2]An cư có những ý nghĩa sau:

1, Hợp pháp hóa một thông lệ hay một tập tục đã được chấp hành một cách tự nhiên cho các tu sĩ trong và ngoài đạo Phật đương thời.

2, Tránh dẫm đạp côn trùng và cây cỏ sinh trưởng nhiều trong mùa mưa.

3, Mùa mưa thích hợp cho việc tu tập để có những tiến bộ tâm linh.

4, Trách nhiệm của Tỷ-kheo đối với Tăng, tức là biểu hiện tinh thần thanh tịnh và hòa hợp của cộng đồng Tăng lữ tại một trú xứ, tinh thần này là sinh mệnh Tăng-già.

5, Nơi nương tựa tinh thần vững chắc và là niềm tin chân chính cho người Phật tử tại gia.

Như vậy, bên cạnh việc phát triển tâm linh của tự thân, vấn đề tương quan trong xã hội, trách nhiệm duy trì sinh mệnh Tăng-già của mỗi vị Tỷ-kheo, An cư còn có ý nghĩa kết nối giữa hàng đệ tử xuất gia và đệ tử tại gia của Thế Tôn, để người tại gia có điều kiện thuận tiện tham gia vào sự nghiệp củng cố và phát triển Tăng đoàn.

Có bốn cửa ngõ để một người đệ tử Như Lai có thể bước vào đạo, đó là: Thân cận thiện sĩ; Thính văn chánh pháp (lắng nghe học hỏi chánh pháp); Như lý tác ý (chiêm nghiệm sâu sắc những điều học hỏi); Pháp tùy pháp hành (hành trì những điều chiêm nghiệm)[3].

Thiện sĩ là Phật và đệ tử Phật, đầy đủ giới đức, trí đức và giải thoát đức, lại còn khiến cho chúng hữu tình cũng đầy đủ tín, giới, văn, xả, tuệ. Thân cận thiện sĩ là gần gũi phục vụ, cung kính cúng dường, học hỏi chánh pháp để từ đó chiêm nghiệm tư duy quán sát[4]. Như vậy, đệ tử tại gia nương tựa nơi Tăng-già nhằm chuẩn bị Phước và Trí làm hành trang tư lương cho hành trình tìm niềm an lạc tuyệt đối giữa thế gian đầy rẫy khổ lụy thương đau này.

Luận Thành Duy thức chia quá trình tu tập từ khởi sự cho đến viên mãn đạo quả gồm có năm giai đoạn[5]: (a) Tư lương vị, chuẩn bị hành trang phước và trí; (b) Gia hành vị, chính thức tu tập; (c) Thông đạt vị, giai đoạn kiến đạo bằng hiện quán Thánh đế; (d) Tu tập vị, lần lượt chứng đắc Thánh quả, tu đạo mà Bồ-tát an trụ; (5) Cứu cánh vị, viên mãn đạo quả, an trú nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Lại nữa, có ba loại thiện căn: Thuận phước phần (puṇyabhāgīya), các loại thiện dẫn bởi tái sinh chư thiên và loài người; Thuận giải thoát phần (mokṣabhāgīya), thiện căn quyết định dẫn đến giải thoát, chứng Niết-bàn; Thuận quyết trạch phần (nirvedhabhāgīya), bốn thiện căn dẫn đến hiện quán Thánh đế là noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất[6]. Trong đó, thuận phước phần và thuận giải thoát phần thuộc Tư lương vị, giai đoạn chuẩn bị phước và trí; thuận quyết trạch phần thuộc Gia hành vị.

Tích lũy phước là hành vi được Thế Tôn khuyến khích đệ tử tại gia nên làm. Có ba cơ sở cho hành vi phước thiện: thí loại phước nghiệp sự (tạo phước bằng bố thí), giới loại phước nghiệp sự (tạo phước bằng giữ giới), và tu loại phước nghiệp sự (tạo phước bằng tu tập)[7]. Luận Câu-xá phân tích ba cơ sở phước thiện này rất rõ ràng và chi tiết[8].

Cho để lợi mình, lợi người, vì cúng dường, giúp ích[9]. Dù cho đối tượng thí, vật thí, đối tượng nhận thí sai biệt nhưng hành vi bố thí nhất định sẽ cho quả tốt. Như kinh Cù-đàm-di nói: Bố thí cho súc sanh có kết quả gấp trăm, bố thí cho người ác giới quả gấp nghìn, bố thí cho người có giới quả dị thục gấp trăm nghìn lần. Thế nhưng, trong tất cả bố thí, tối thượng hơn hết là vị ly nhiễm bố thí cho vị ly nhiễm[10]. Vậy thì làm sao biết trong cộng đồng Tăng lữ ai là người đã ly nhiễm, ai chưa ly nhiễm, để cho sự bố thí của cư sĩ được tối thắng? Tuy nhiên, Câu-xá cũng phân tích sự bố thí vì nguyên nhân lợi lạc của hết thảy hữu tình, tuy là sự bố thí của vị chưa giải thoát cho những kẻ chưa giải thoát nhưng cũng là đệ nhất tối thắng[11].

Tăng đệ tử Phật là cộng đồng đầy đủ công đức giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, là vị ứng thỉnh, ứng khuất, ứng cung kính, là ruộng phước vô thượng, thế gian ứng cúng. Đầy đủ nhân tu hành: diệu hành, chất trực hành, như lí hành, pháp tùy pháp hành, hòa kính hành, tùy pháp hành. Gồm có bốn đôi tám vị, là sự an lập của tám Bổ-đặc-già-la từ Dự lưu hướng đến A-la-hán quả[12]. Như vậy thì cộng đồng Tăng lữ sẽ có cả Thánh và phàm cùng cộng trú, do đó mà sự bố thí cúng dường cho Tăng đệ tử Phật chắc chắn sẽ có phước, vì ngay cả thí cho súc sanh một viên thực phẩm còn có phước huống gì bố thí cho con người, mà trong đó còn có người đã chứng Thánh.

Nhưng, dù phước nghiệp nhiều cỡ nào thì khi cho quả hết, chúng sanh vẫn sẽ phải đọa lạc, có khi còn đọa địa ngục. Do vậy, ngoài tích lũy phước, cần phải tích lũy trí, thiện căn dẫn đến Niết-bàn. Câu-xá nói: “Người nào khi nghe về sự nguy hại của sanh tử, vô ngã và phẩm đức Niết-bàn, tức thì lông tóc dựng đứng, nước mắt chảy, quả quyết người này có thiện căn thuận giải thoát phần”[13]. Tích lũy Trí như vậy là bằng việc tu tập tuệ từ Văn-Tư-Tu. Tuệ được tác thành do văn là quyết định trí phát sinh từ Thánh ngôn lượng, tức là nhận thức phát sinh do nghe và học về những điều được Phật nói trong các kinh và những lý giải của các đệ tử về những giáo nghĩa này. Tuệ được tác thành do tư là trí phát sinh từ quyết trạch chánh lý, nhận thức do tư duy và chiêm nghiệm về những giáo nghĩa Phật thuyết. Tuệ được tác thành bởi tu là trí phát sinh từ chánh định. Cơ sở của ba loại tuệ này là bốn thánh đế, trực tiếp được kinh nghiệm từ chính đời sống của con người trong thế giới đầy biến động này. Do đó, Phật tử tại gia thường xuyên “thân cận thiện sĩ” để thuận tiện cho việc nghe và thực hành Phật pháp vậy.

Tóm lại, An cư là dịp Tăng đoàn tập trung thành cộng đồng theo từng trú xứ nhất định, sinh hoạt trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp, là cơ hội để hàng Phật tử tại gia gieo hạt giống phước và trí cho bản thân. Họ là những đàn-việt thí chủ cung cấp cho chúng Tăng đồ ăn, đồ mặc, chỗ ở, thuốc men. Chúng Tăng thọ nhận ân đức này cũng cần phải hoàn thiện giới, hoàn thiện các thiện pháp, tự thân tu tập lại còn khéo giảng nói, khuyến khích người khác tu tập thì mới xứng đáng thọ nhận sự hiến cúng, mới xứng đáng là Tăng bảo cho thế gian nương tựa. Thế Tôn dạy: “Này các Tỷ-kheo, hãy có tâm từ với đàn-việt. Ân nhỏ còn không quên, huống gì ân lớn. Hãy đem tâm từ mà nói cho đàn-việt kia về hành vi thanh tịnh của thân, khẩu, ý, không thể tính đếm, không thể hạn lượng. Hãy với thân hành từ, khẩu hành từ, ý hành từ, khiến cho vật sở thí của đàn-việt kia trọn không bị phế bỏ, được quả lớn, thành tựu phước lớn, có danh xưng lớn, truyền khắp thế gian, pháp vị cam lộ”[14].

Tịch Liêu cốc, mùa An cư Quý Mão 2567
CHƠN TRÍ.


[1] Lục quần Tỷ-kheo, nhóm sáu Tỷ-kheo thường xuyên làm việc phi pháp, phi luật.

[2] Thích Trí Thủ (2011). Yết-ma yếu chỉ. Thích Đỗng Minh & Thích Nguyên Chứng (biên tập). Nxb Phương Đông. Tr.257-263.

[3] Đại 26, No. 1537, p. 458b25. Tham khảo: Tuệ Sỹ & Nguyên An (dịch) (2018). A-tỳ-đạt-ma Pháp uẩn túc luận. Nxb Hồng Đức. Tr. 86.

[4] Sđd. Tr. 88.

[5] Đại 31, No. 1585. Tham khảo: Tuệ Sỹ (2019). Luận Thành duy thức. Nxb Hồng Đức.

[6] Tỳ-bà-sa 7, tr.34c27. Kośa iv. k. 125cd. Dẫn bởi: Tuệ Sỹ (2019). Luận Thành duy thức. Nxb Hồng Đức. Tr. 561.

[7] Trường A-hàm. Kinh Chúng Tập.

[8] Tuệ Sỹ (dịch) (2015). A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (iii). Nxb Hồng Đức. Tr. 608.

[9] Sđd. Tr. 611.

[10] Trung A-hàm. Kinh số 180. Dẫn bởi: Luận Câu-xá.

[11] Sđd. Tr. 617.

[12] Trường A-hàm, Kinh Du hành.

[13] Sđd. Tr. 632.

[14] Tăng nhất a-hàm. Phẩm hộ tâm. Kinh số 3.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Năm Thìn và những trận bão lụt khủng khiếp
Điểm nhìn

Rồng (con vật từ trí tưởng tượng của phương Đông) có liên quan mật thiết đến thiên tượng và thời tiết. Vì vậy, trong những năm Thìn thường có bão tố và lũ lụt kèm theo. Do đó trong dân gian có câu “Ông tha mà bà chẳng tha” là vậy. Những trận bão năm...

Báo Lao Động phản ánh chùa Phật Quang nhưng lấy hình Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM để minh họa
Điểm nhìn

Vừa qua, Báo Lao Động đã xuất bản một video Những cơ quan nào bị “xướng tên” khi để chùa của sư Thích Chân Quang xây dựng trái phép, lấn rừng?, đã lấy hình ảnh cơ sở I Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM để minh họa cho phản ánh được cho là các vi phạm...

Hoạt động đào tạo Tăng tài trong phong trào chấn hưng PGVN giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX
Lịch sử, Nghiên cứu

Tăng sĩ không tu tập, không am hiểu giáo lý để hoằng pháp, điều này ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng tín đồ phật tử. 1. Dẫn nhập    Phật giáo du nhập vào nước ta đã trải qua hơn 2000 năm, những giá trị tâm linh Phật giáo để lại trên mảnh đất...

Ứng dụng Kinh tạng Pali về đạo đức, xây dựng mô hình kinh doanh hiệu quả và bền vững
Nghiên cứu

Sự phát triển của kinh tế hôm nay và sự bình ổn của xã hội, sự an toàn của môi trường trong tương lai không thể tách rời nhau, có mối quan hệ hỗ tương cho nhau A. Dẫn nhập Kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận, nhưng kinh doanh như thế nào để tạo...

Vai trò của Phật giáo thời Lý trong lĩnh vực chính trị, tôn giáo và đoàn kết chống ngoại bang
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt Khi đề cập đến sự tín ngưỡng tâm linh của người Việt thì không thể không nói đến Phật giáo. Phật giáo du nhập vào Việt Nam vòa khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên, tư tưởng từ bi, vị tha của đạo Phật nhanh chóng được cư dân bản địa tiếp...

Hành trạng và tư tưởng Phật học của Tổ sư Hoán Bích – Nguyên Thiều
Lịch sử, Nghiên cứu

Thiền sư Nguyên Thiều được biết là một vị tổ sư, cao tăng gốc Trung Hoa thuộc thế hệ thứ 33 dòng thiền Lâm Tế, đã sang Việt Nam hoằng đạo ở Đàng Trong vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1627-1789) và giúp phục hồi Phật giáo Xứ Đàng Trong.  1. Vấn đề về hành...

Chùa Diệu Ðế và hai bài thơ liên quan vừa được tìm thấy trong Cống Thảo Viên Tập của Nguyễn Phúc Miên Cư
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Trong dòng chảy lịch sử, văn hóa, văn học Việt Nam, có không ít những công trình kiến trúc từ lâu đã trở thành kinh điển, đại diện cho tinh thần và tư duy của một triều đại với những thăng trầm bi hùng. Không chỉ thế, nó còn mang xu hướng linh thiêng, là...

Mối liên hệ về chữ “Hiếu” trong Nho giáo và văn hóa Lễ Vu Lan ở Trung Quốc: từ thế tục tới tính thiêng!
Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Trung Quốc vào thời nhà Hán (202 TCN – 220 CN); kết hợp các nền văn hóa bản địa cố hữu, Phật giáo dần trở thành một tôn giáo có sức ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Phật giáo sơ truyền,...

Xu thế biến đổi trong Kiến trúc, cảnh quan chùa Huế
Kiến trúc-Mỹ thuật, Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Phật giáo Huế với một bề dày lịch sử, gắn liền với thăng trầm vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân xưa, đã hàm chứa, bảo tồn được nét riêng có trên nhiều mặt của yếu tính truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, trong chiều hướng phát triển của xã hội thì trong...

Tín ngưỡng thờ Long Vương trong Phật giáo Nam bộ
Nghiên cứu, Văn hóa

Tượng Long Vương ở Tổ đình Hội Khánh (Bình Dương). LONG VƯƠNG TRONG PHẬT GIÁO Trong Phật giáo, rồng là một trong Bát bộ chúng thủ hộ Phật pháp. Lãnh tụ của Long tộc gọi là Long Vương, có đầy đủ uy lực lớn mạnh, thường theo bảo vệ Phật. Trong các kinh sách Phật...

Vai trò nhập thế qua những biểu hiện, một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm phát huy vai trò của nữ Phật tử
Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân loại. Ở phương diện tích cực, chúng phục vụ nhiều nhu cầu, đem lại hiệu suất làm việc cao cho con người. Song ở phương diện tiêu cực, chúng khiến đời sống tinh thần đứng...

Các công chúa triều Trần với đạo Phật và chốn thiền môn
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Khi công chúa Thái Đường mắc lỗi, triều đình tịch thu điền trang của bà sung vào ruộng quốc khố. Bà bèn đi tu ở chùa Nghĩa Xá, gần Lạc Quần (Xuân Trường). Thời nhà Trần, đạo Phật được nhân dân Đại Việt rất coi trọng và tôn sùng. Các vua Trần từ Trần Thái...

Đóng góp của gia đình danh y Lê Hữu Trác đối với Phật giáo Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Với việc xây chùa Tượng Sơn, gia đình đại danh y Lê Hữu Trác có những đóng góp nhất định đối với Phật giáo Hà Tĩnh. Tượng Sơn tự cũng là nơi Hải Thượng Lãn Ông dành phần lớn thời gian lưu lại chùa để bốc thuốc, chữa bệnh cứu người và hoàn thành...

Nghiên cứu về một vài ngộ nhận đối với lịch sử phát triển Ni đoàn
Lịch sử, Nghiên cứu

TÓM TẮT Từ khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã cho phái nữ xuất gia thành Tỳ kheo Ni với điều kiện là thọ trì Bát kỉnh pháp. Có Ni giới, hàng xuất gia của Đức Phật được tăng đông lên. Tứ chúng của Đức Phật trở nên đầy đủ. Sự xuất hiện của...

Đức Từ Cung với sự phát triển và chấn hưng Phật giáo xứ Huế từ những năm 30 đến những năm 80 Thế kỷ XX
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Đức Từ Cung hay Đoan Huy Hoàng thái hậu không chỉ quan tâm chăm lo hương khói, cúng tế tổ tiên nhà Nguyễn, mà còn là một tín đồ thuần thành của Phật giáo. Trên cương vị Hoàng Thái hậu triều Nguyễn, bà Từ Cung đã có nhiều đóng góp trong công cuộc chấn...

Nghĩ Về Thịnh Pháp Và Mạt Pháp
Điểm nhìn

Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp? Bài này được viết để trình bày một số suy nghĩ liên hệ. Bài này được viết trong tinh thần biết ơn Phật, biết ơn Pháp, biết ơn Tăng. Tuy nêu lên vấn đề, có phải chúng ta đang ở thời mạt pháp, nhưng người viết không có bất kỳ thẩm quyền nào về...