1. Chùa Đá Vàng

Chùa Đá Vàng, hay còn gọi là chùa Kyaikhtiyo ở bang Mon là kỳ quan có một không hai trên thế giới, là một trong những ngôi chùa cổ nhất và nổi tiếng nhất ở Myanmar, là di sản văn hoá thế giới.

Người ta nói rằng, chùa được xây dựng trong thời gian Đức Phật còn sống, trên 2.500 năm trước. Nơi đây có một tảng đá thiêng, được bao bọc bởi những lá vàng dát mỏng, nằm cheo leo trên bờ một vách đá, được neo giữ chỉ bởi một sợi tóc của Đức Phật. Ngôi chùa được xây dựng trên tảng đá hình quả trứng to lớn đó trên độ cao 1100 m so với mặt biển.

Gắn liền với hòn đá vàng là cả một truyền thuyết thú vị và kỳ bí về việc Đức Phật đến truyền đạo ở nơi đây. Bởi vậy, lúc nào nơi đây cũng có đông đảo người tới thăm viếng, chiêm bái, hành lễ. Một điều đặc biệt là mặt tiếp xúc giữa hòn đá và mặt đất chỉ có 78 cm².

2. Chùa Bạch Long

Chùa Bạch Long là công trình kiến trúc độc nhất vô nhị của Thái Lan nằm tại tỉnh Chiang Rai. Chùa được Kiến trúc sư nổi tiếng Thái Lan đồng thời là họa sĩ Chalermchai Kositpipat thiết kế; bắt đầu được xây dựng vào năm 1997.

Toàn bộ ngôi chùa mang sắc trắng, cùng với vô vàn hình rồng uốn lượn đúng như tên gọi của nó bạch long tức là rồng trắng. Được biết rất nhiều kim loại bằng bạc đã được dùng để kiến tạo nên ngôi đền này, trong ánh sáng lung linh ngôi đền này đẹp hơn bao giờ hết.

Bao quanh ngôi chùa chính là một công viên có hồ cá và những tác phẩm điêu khắc màu trắng. Mỗi bức tượng là một sinh vật huyền thoại có ý nghĩa nhất định.

Du khách và những tín đồ Phật giáo đều muốn được đến đây thắp hương cầu Phật vì tin rằng Bạch Long Tự vốn rất linh thiêng.

3. Chùa Asakusa Kannon

Chùa Asakusa Kannon hay còn gọi là Sensoji là một trong những ngôi chùa cổ kính nhất hiện nay của Tokyo, xây dựng vào thế kỷ 7, sau khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản.

Theo truyền thuyết cổ xưa, có hai anh em khi đang đánh cá trên sông Sumida-gawa đã tìm thấy một tượng phật quan âm (Kannon) vướng vào trong lưới của mình. Mặc dù, nhiều lần thả tượng Phật về với dòng sông nhưng bức tượng vẫn quay trở lại với họ. Vị trưởng lão trong làng nhận ra được sự linh thiêng của bức tượng nên đã hiến một phần ngôi nhà của mình lập nên ngôi đền nhỏ thờ Phật Quan Âm, chính là Sensoji ngày nay.

Chính điện lớn của chùa Asakusa Kannon là Điện Quan Âm (Kannondo). Chính điện cũ được xây dựng lại vào năm 1649 và được công nhận là di sản quốc gia. Đại điện quay mặt về phía Nam, bên trong đại điện được phân thành 2 khu vực: khu vực dành cho tín đồ ở phía trước và khu vực đặt tượng Phật quan trọng ở phía trong. Vào ngày 13/12 hàng năm, cửa đại điện được mở, tuy nhiên các tín đồ chỉ được phép thắp nhang và đứng xem tượng Phật Quan Âm ở phía ngoài, còn khu vực đặt tượng Phật quan trọng ở phía trong thì không được phép vào.

Đền có hai cổng chính là cổng Sấm và cổng Hozomon được nối với nhau bởi con đường mua sắm Nakamise. Trước khi tiến vào ngôi đền, du khách sẽ phải đi qua cổng Kaminarimon (cổng Sấm), biểu tượng đặc trưng của Asakusa và cả thành phố Tokyo. Đây là một trong hai cổng chính của ngôi đền, được xây dựng vào năm 942. Trước cổng có treo một chiếc đèn lồng lớn màu đỏ, cao 4m, chu vi 3.4m, nặng khoảng 670kg, hai bên là bức tượng của 2 vị thần. Thần Raijin (thần sấm) và thần Fujin (thần gió).

4. Chùa Kinkakuji

Chùa Kinkakuji hay còn gọi là chùa Vàng ban đầu là một khu nhà nghỉ của tướng quân Ashikaga, tổng tư lệnh dưới thời Muromachi. Sau khi ông chết, ngôi nhà trở thành một ngôi chùa được dát toàn vàng lá.

Ngôi chùa này nổi tiếng tới mức được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy tại các trường học trên khắp nước Nhật và được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Kinkaku-ji Temple được thiết kế để trông giống như trời và đất vươn ra chạm vào nhau. Nét đặc trưng nhất về sự tinh xảo và cầu kỳ của Chùa Vàng là một vị thế rất ấn tượng giữa những tán xanh của lá và ánh sáng tinh khiết phản chiếu của hồ nước tĩnh lặng. Bức tranh được vẽ nên từ ý tưởng về sự tồn tại giữa chốn thiên đường và trần thế. Sự hài hòa của ngôi chùa cùng với bóng nước thực hư làm nên một Kinkakuji – viễn cảnh nổi tiếng nhất của Kyoto.

Kinkakuji là một cấu trúc ấn tượng được xây dựng trong một cái hồ lớn. Tầng đầu tiên của Kinkakuji được xây dựng theo phong cách Shinden sử dụng cho các tòa nhà cung điện trong thời kỳ Heian với trụ cột làm bằng gỗ tự nhiên, tường thạch cao màu trắng tạo nên sự tương phản nhưng lại làm nên nét hài hòa cho 2 tầng trên được dát vàng. Tượng Phật Shaka và Yoshimitsu được lưu trữ ở tầng đầu tiên. Tầng thứ hai được xây dựng theo phong cách Bukke được sử dụng làm nhà ở của samurai, bên ngoài được bao phủ hoàn toàn bằng những lá vàng mỏng. Bên trong là Bồ Tát Kannon, ngồi bao quanh bởi các bức tượng của 4 vị vua trên thiên đình. Cuối cùng, tầng thứ ba và cao nhất được xây dựng theo phong cách của một ngôi chùa Zen Trung Quốc, được mạ vàng bên trong và ngoài, và trên đỉnh mái là một con phượng hoàng được đúc bằng vàng.

5. Angkor Wat

Angkor Wat của Campuchia được xây dựng trong thế kỷ 12. Ban đầu đây là nơi thờ thần Visnu của Ấn Độ giáo. Về sau, khi vương triều Khmer theo Phật giáo, Angkor Wat trở thành linh đền thờ Phật. Sau khi kinh đô của đế quốc Khmer bị người Xiêm phá hủy và các nhà vua Khmer bỏ về Phnom Penh trong thế kỉ 15, Angkor Wat rơi vào quên lãng, bị rừng già vây phủ và được khám phá lại vào năm 1860 bởi Herri Mouhot.

Angkor Wat là sự kết hợp của hai nét cơ bản của kiến trúc Khmer: kiến trúc đền-núi cùng với những dãy hành lang dài và nhỏ hẹp. Kiến trúc này tượng trưng cho Núi Meru, quê hương của các vị thần trong truyền thuyết Ấn Độ giáo: nằm giữa một con hào và lớp tường bao dài 3.6 km (2.2 dặm) là khu chính điện ba tầng với kiến trúc hình chữ nhật, kết nối với nhau bởi những dãy hành lang sâu thẳm. Trung tâm của ngôi đền là tổ hợp 5 tháp với một tháp trung tâm và bốn tháp tại bốn góc hình vuông. Không giống những ngôi đền theo phong cách Angkor khác, Angkor quay mặt về phía Tây. Ngôi đền được ngưỡng mộ bởi vẻ hùng vĩ và hài hòa của kiến trúc, sự phong phú của nghệ thuật điêu khắc và số lượng lớn các vị thần được trang hoàng trên những bức tường đá.

6. Chùa That Luang

Là một tòa lâu đài tráng lệ, đồ sộ nằm ở trung tâm kinh thành với tháp nhọn vàng rực rỡ kiêu hãnh vươn lên giữa bầu trời xanh yên ả của Vientian, Chùa That Luang được xây dựng vào khoảng năm 236 Phật lịch, tức năm 307 trước Công nguyên.

Tới thế kỷ XVI, đức Vua của Vương quốc Lan Xang quyết định dời kinh đô của đất nước Triệu Voi từ Luang Prabang về Viêng Chăn. Và That Luang được tu bổ lại xây bọc thêm ngôi tháp cũ bằng một tháp mới to, đẹp hơn và kiến trúc ấy giữ nguyên cho đến ngày nay.

Kiến trúc của ngôi chùa tiêu biểu cho những nét văn hóa Lào. Tương truyền, That Luang là một trong số ít những ngôi chùa của đạo Phật trên thế giới được lưu giữ xá lợi của Đức Phật Thích Ca Mầu Ni khi người nhập cõi Niết Bàn. Thạt Luông gồm tháp chính cao 45 thước, bao quanh là các tháp phụ, sơn thếp vàng.

Tâm Thắng sưu lục

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Ảnh hưởng của đạo Phật đến các giá trị văn hóa xã hội
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Sự nhấn mạnh vào nhận thức bản thân, từ bi tâm và công lý xã hội đã biến đạo Phật thành một động lực kiên cường cho sự chuyển hoá tích cực. Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế...

Những đóng góp của triều đại nhà Trần đối với Phật giáo Việt Nam về văn hoá, tư tưởng
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Triều đại nhà Trần không chỉ là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong công cuộc khôi phục và phát triển đất nước, mà còn là thời kỳ đánh dấu sự thăng hoa của Phật giáo trong mọi lĩnh vực văn hóa, giáo dục và tinh thần của dân tộc. Chương I. Khái quát...

Các thiền sư thời Lê sơ và sự nỗ lực chấn hưng truyền thống văn hóa dân tộc Đại Việt
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, đánh bạt âm mưu xâm lược, nô dịch văn hóa của thế lực phương bắc ngay từ những thế kỷ đầu. Tóm tắt Phật giáo thời Lê sơ (1428 – 1527) tuy ít được triều đình...

Hoà thượng Tâm Ấn Vĩnh Thừa Thiền – Tịnh – Mật tam hành
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Tóm tắt: Sự biến động về chính trị, xã hội của Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đã ảnh hưởng rất nhiều đến Phật giáo nước nhà, nên tông chỉ tu tập giữa các tông phái dần bị phai mờ, mất đi ranh giới mà thay vào đó là sự pha lẫn, hoà...

Đức Phật nói gì về chính trị và pháp trị quốc?
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo...

Trúc Lâm đầu đà – một phong cách xuất trần Thượng sĩ
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Hòa hợp xã hội là một phương pháp chính trị của vương quyền nhà Trần, nhưng cũng mang phong cách của Ngài từ ảnh hưởng giáo lý nhà Phật thấm nhuần. Tìm lại dấu xưa là để ôn cố tri tân vậy. Bài viết này chúng tôi muốn nói lên phong cách đặc thù của Tổ...

Đặc tính tư tưởng của Thiền phái Lâm Tế ở Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu

Thiền phái Lâm Tế truyền vào Việt Nam từ Trung Hoa qua hai giai đoạn chính là vào thời nhà Trần và đời Lê Trung hưng (vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn). Sau khi truyền vào Việt Nam, Thiền phái Lâm Tế có những thay đổi cơ bản để thích nghi với văn hóa, phong...

Tín ngưỡng thờ Mẫu trong tiến trình phát triển tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Các hiện tượng siêu nhiên huyền bí, kết hợp với niềm tin và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, hình thành nên tín ngưỡng Tam Tứ Phủ đặc trưng của người Việt với các vị nữ thần chính trông coi các cõi của tự nhiên Việt Nam là nơi giao thoa các nền tôn giáo,...

Đạo Mẫu và Tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ qua trật tự các giá Hầu
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và rất thuần Việt. Nói đến Đạo Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao mà người ta tôn là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu, tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu, người ta không...

Các kỳ kết tập Kinh điển Tam Tạng Pali
Lịch sử, Nghiên cứu

Công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo là bổn phận của mọi người Phật tử, là bậc xuất gia cũng như các hàng tại gia cư sĩ. Để giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo cho được đầy đủ, không để rời rạc,...

Bốn trường phái nghiên cứu Phật học trên thế giới
Nghiên cứu

Đến thế kỷ XX, Phật giáo lan toả sang vô phương Tây, việc nghiên cứu Phật giáo ở phương Tây được định hình có phương pháp tư duy khoa học nên phát triển mạnh mẽ, với ba trường phái lớn tại các khu vực Anh – Đức, Pháp – Bỉ, và Nga. Mỗi trường phái...

Vai trò của vua Trần Thái Tông trong việc thiết lập nền tảng cho sự hình thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Tóm tắt: Bên cạnh vai trò là một vị vua hiền về mặt trị quốc, Trần Thái Tông còn được biết đến với tư cách là người đã có vai trò quan trọng trong việc tiếp nối, duy trì và phát triển Thiền tông Việt Nam trong giai đoạn chuyển giao quyền lực Lý –...

Sự thành lập Giáo đoàn Ni Phật giáo
Lịch sử, Nghiên cứu

Hơn hai nghìn năm Giáo đoàn Ni có mặt trên thế gian này, dù trải qua bao biến cố trong những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, nhưng những nữ tu sĩ Phật giáo vẫn luôn thể hiện khả năng xuất sắc của giới nữ trong tu tập, hộ quốc an dân và phát...

Đóng góp và giá trị của Tạp chí Viên Âm
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Hoạt động hoằng pháp của tạp chí Viên Âm ở miền trung đã trở thành cơ quan ngôn luận góp phần trong công cuộc chấn hưng Phật giáo… Hoạt động hoằng pháp của Tạp chí Viên Âm ở miền trung đã trở thành cơ quan ngôn luận góp phần trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt...

Vài nét về âm nhạc Phật giáo
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Âm nhạc là lĩnh vực không được nói đến nhiều trong Phật giáo, càng không phải lĩnh vực được đề cao và khuyến khích, ít nhất là trong Phật giáo thời kỳ đầu. Điều này không có gì lạ, vì theo truyền thống Phật giáo, âm nhạc là thứ đức Phật khuyên dạy những đệ...

Về tên gọi Thượng Tọa và Thượng Tọa Bộ trong các nguồn tư liệu Phật giáo Trung Hoa
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

VỀ TÊN GỌI THƯỢNG TOẠ (STHĀVIRA, THERA) VÀ THƯỢNG TOẠ BỘ (STHĀVIRAVĀDA) TRONG CÁC NGUỒN TƯ LIỆU PHẬT GIÁO TRUNG HOA (Sthavira, Thera and ‘*Sthaviravāda’ in Chinese Buddhist Sources)  của Max Deeg THÍCH NHUẬN CHÂU dịch Lời người dịch Bhikkhu Sujato, vị tỉ-khưu uyên bác người Úc châu, đã dịch bốn bộ Nikāya từ tiếng Pāli sang tiếng Anh. Bhikkhu...