Theo Hòa Thượng Thích Chơn Thiện, vượt lên ý nghĩ tâm linh và vẻ đẹp kiến trú, chùa Một Cột trở thành biểu tượng của Thăng Long – Hà Nội, của văn hóa Việt Nam là bởi giá trị lịch sử to lớn của nó cũng triết lý hành động mà vị vua sáng lập ra nó muốn truyền lại cho đời sau.
Ngôi chùa nhỏ, giá trị lịch sử lớn
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chính vua Lý Thái Tông là người cho xây dựng chùa Một Cột và đặt tên là chùa Diên Hựu, không phải cầu phúc để sinh con, mà là mong cho đất nước tồn tại lâu dài. Đây mới là ý nghĩa đúng của chùa Một Cột.
Chùa Diên Hựu là tiếp nối chuỗi sự kiện Lý Công Uẩn sau khi lên ngôi liền cho dời về Thăng Long để mở rộng kinh thành và phát triển kinh tế – xã hội, vì vùng Hoa Lư chật hẹp, tù túng. Cũng ngay sau đó ông cho xây dựng cùng một lúc nhiều ngôi chùa, khuyến khích thanh niên đi tu, cho đinh thỉnh kinh Phật giáo tại Trung Quốc. Đến đời Lý Thái Tông, ” ông xuống chiếu phát tiền thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150 chổ” (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Rõ ràng, một đằng là xây dựng để phát triển kinh tế xã hội, một đằng là phát triển văn hóa, và dùng văn hóa Phật giáo để đề kháng với văn hóa phương Bắc; dùng văn hóa để kết nối toàn dân, tạo nên sức mạnh cho dân tộc, nếu không sẽ bị ảnh hưởng cảy Nho giáo Trung Quốc và dễ bị phụ thuộc. Điều này thể hiện ý chí độc lập, tự cường của mình. Lý Thái Tông vẫn tiếp nối sự nghiệp, đường lối của vua cha, nên việc xây dựng chùa Diên Hưu cũng trong ý hướng đó, ý hướng để thiết lập văn hóa để văn hóa, đất nước phát triển, độc lập dâu dài. Nói như thế mới thấy được vai trò lịch sử độc đáo chùa Một Cột và hậu thế phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn giá trị lịch sử đó. Không phải ngôi chùa nhỏ mà giá trị lịch sử nhỏ.
Triết lý hành động: Tùy duyên nhi bất biến
Tại sao lại gọi là chùa Một Cột và xây một cột? Lý Thái Tông rất giỏi Phật học, một cách tự thân. Vậy nên, ý kiến xây dựng chùa Một Cột hẳn phải là ý kiến của Lý Thái Tông. Để xây dựng chùa Một Cột, ông ra chiếu chỉ xây dựng chùa, vừa là biểu mẫu của ngôi chùa. Vì đó là triết lý của Phật giáo, không thể khác hơn được, của một ngườ, một triều đại đang đề cao vai trò của Phật giáo thành Quốc giáo. Một cột là bởi theo triết lý duyên khỏi của Phật giáo, tất cả các pháp dung nhiếp (dính chặt lại) lẫn nhau. Một là tất cả, tất cả là một. Một ấy là pháp giới duyên khởi. tất cả các hiện hữu đều do điều kiện sinh khởi lên. Ngay như chùa Một Cột không có mặt thượng đế, nó phủ nhận luôn cả văn hóa Hồi giáo, Ấn giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành giáo, bởi nó không chủ trương có nguyên nhân đầu tiên. Và cõi đời này là thật, người thấy nó hư là vì cái nhìn cùa người thấy nó hư, còn tự nó thật. Cái tâm khi thanh tịnh sẽ thấy thế giới này là thật, còn cái tâm đầy tham sân si thì sẽ thấy nó không thật.
Ngôi chùa đi theo triết lý Tùy nhiên nhi bất biến (Tùy hoàn cảnh mà giữ cái bất biến), khởi sinh ra triết lý Dĩ bất biến, ứng vạn biến Hồ Chủ Tịch dùng sau này. Đó hẳn là triết lý của Việt Nam và giáo lý này thích ứng với triết lý Việt Nam. Ngôi chùa để lại cho đời sau triết lý hành động (giống như cẩm nang), chứ không phải chỉ tín ngưỡng không thôi. Người ta đến chùa thắp hương cầu nguyện, nhưng khi đọc được những câu đói chứa đựng triết lý, tư tưởng, người ta giật mình để sáng tâm.
Nói về thẩm mỹ xây dựng chùa, có cây, đá với nước, thể hiện sự hòa hợp thiên nhiên. Hồ nước có thể coi là biển đời, thế tục, trần thế, ngôi chùa là hình ảnh hoa sen nổi lên trên cuộc đời. Ngôi chùa ở trên một cái trụ như tòa sen, như hoa sen ở trong bù, từ dưới nước mọc lên. Hoa sen là biểu tượng của chân lý, từ dươi nước mọc lên. Hoa sen là biểu tượng của chân lý, từ cuộc đời mà ra, ở trên cuộc đời, là cái người ta vươn tới.
Triết lý Một, triết lý Nhất của Việt Nam không chỉ có chùa Một Cột. Như đàn bầu, chỉ một dây nhưng khởi sinh ra hàng ngàn âm điệu. Từ một mà biến ra thành ngàn, vì thế, nếu mình không giữ cái Một (độc lập) thì sẽ mất mình, nhưng nếu chỉ ôm khư khư cái Một đó cũng không thể tồn tài, mà phải thích ứng với hoàn cảnh. Giống như trong thời đại hội nhập văn hóa, phải tiếp thu văn hóa của các nước khác, nhưng vẫn phải giữ cái bất biến. Phải có cái của mình, rồi mới tiếp thu, nếu không sẽ làm mất mình. Triết lý này linh hồn của văn hóa Lý – Trần và cũng là linh hồn của văn hóa Việt Nam.
Trùng tu chùa Một Cột như thế nào ?
Trùng tu chùa Một Cột là để hưng khởi lại trí tuệ dân tộc Việt Nam như đã nói ở trên, mà trước hết là lưu giữ những giá trị của công trình kiến trúc độc đáo của dân tộc của triều đại đã có công dựng nước. Có thể làm lớn chùa Một Cột cho xứng với thời đại. Chùa phải có cảnh quan xung quanh, khi quan khách đến phải có chổ ngồi, vì thế có thể xây dựng chuổi xung quanh (theo mô hình hiện đại để nói lên tiếng nói thời đại), làm nổi bật ngôi chùa. Cũng nên mở rộng hồ cho thoáng mát, làm đẹp thêm khung cảnh của quần thể di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh… Người Việt Nam đến đây để chiêm ngưỡng chùa Một Cột, cũng là để học hỏi triết lý hành động mà đời xưa để lại và xây dựng văn hóa Việt Nam theo triết lý hành động mà đời xưa để lại và xây dựng văn hóa Việt Nam theo triết lý đó. Đây mới là điều mà các vị vua muốn nói cho đời sau chứ không phải để chỉ lại một ngôi chùa đơn thuần.
Thích Chơn Thiện