CỐ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ Ý
(1919-1990)
TRỤ TRÌ CHÙA HÒA AN- P.TAM KỲ, TP.ĐÀ NẴNG
Trên dòng chảy hơn hai nghìn năm lịch sử Phật giáo Việt Nam, đã có biết bao bậc cao tăng thạc đức để lại dấu ấn trong lòng hậu thế. Trong số ấy, Đại lão Hòa thượng Thích Từ Ý – đời thứ 43 thiền phái Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Liễu Quán – là một bậc chân tu, một nhà giáo dục Phật học mẫu mực, một vị Tôn sư khai sơn nhiều ngôi phạm vũ, góp phần chấn hưng Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng trong thế kỷ XX.
Từ buổi thiếu thời thấm nhuần giáo pháp, phát tâm cầu đạo, xuất gia hành trì, cho đến khi xây dựng nhiều tự viện, đào tạo tăng tài, tổ chức giới đàn, an cư kiết hạ…, Ngài luôn lấy từ bi làm hạnh, trí tuệ làm sự nghiệp, kiên định làm gốc, cống hiến trọn đời cho sự trường tồn của Phật pháp và sự an lạc của quần sinh.
I. Thân Thế
Đại lão Hòa thượng Thích Từ Ý (1918 – 1990), thế danh Trần Văn Chí, pháp húy Tâm Niệm, tự Từ Ý, hiệu Chơn Thiện, thuộc đời 43 Thiền phái Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Liễu Quán.
Ngài sinh ngày 21/01/1918 tại làng Tịch Tây, tổng Đức Hòa, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Trà Tây, xã Tam Mỹ Đông, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam), trong một gia đình Nho phong, thâm tín Tam bảo. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Thi (pháp danh Thanh Y), thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Thời (pháp danh Tịnh Vận). Hòa thượng là người con út trong gia đình sáu anh chị em.
II. Thời Kỳ Tu Học và Hành Đạo
Nhân Duyên Học Đạo
Thuở nhỏ, Hòa thượng đã sớm ươm mầm đạo tâm. Năm 16 tuổi, được cha mẹ cho đến học Phật với ngài Thái Như Đào – trụ trì chùa Tế Dương, huyện Tiên Phước. Năm 1943, ngài dời chùa Phú Sơn trên núi Năm Mú về núi Bàu Đá như vị trí ngày nay.
Đến năm 1950, Hòa thượng sắp xếp mọi việc gia đình, xin thầy Thái Như Đào cho xuất gia. Thầy cho rằng Tam giáo đang suy, nên dẫn ngài ra Đà Nẵng y chỉ Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Tôn Thắng, khai sơn chùa Sắc tứ Phổ Thiên (nay là chùa Phổ Đà – Đà Nẵng). Đây là Phật học viện của Hội An Nam Phật học. Ngài được ban pháp danh Tâm Niệm.
Nhờ căn cơ xuất trần, hình nghi đĩnh đạc, lại từng được giáo dưỡng tại chùa Phú Sơn và Tế Dương, Hòa thượng chỉ trong ba năm tu học tại Phật học viện Phổ Thiên đã tinh thông giáo pháp. Năm 1953, ngài thọ giới Sa-di tại giới đàn chùa Báo Quốc (Huế). Năm 1956, thọ giới Tỳ-kheo tại giới đàn chùa Ấn Quang do Hòa thượng Thiện Hòa làm Đàn đầu.
Hành Đạo, Kiến Thiết Tự Viện
Sau khi thọ đại giới, Hòa thượng được Bổn sư phó thác Phật sự tại Tam Kỳ. Ngài cùng huynh đệ trùng kiến chùa Tịnh Độ, được Giáo hội Tăng-già Trung Phần cấp giấy chứng nhận Tăng chúng. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng được Chi hội Phật học Tam Kỳ mời làm giám tự Hội quán Phật học (nay là chùa Hòa An) và chính thức trụ trì vào năm 1960.
-
Năm 1958: Xây dựng chùa Hữu Lâm bằng tranh tre.
-
Năm 1961: Trùng tu chùa Hòa An lần thứ 2, làm trụ sở Chi hội An Nam Phật học Tam Kỳ.
-
Năm 1963: Nhận đất hiến cúng của nhân dân Xuân Đông, kiến lập chùa Từ Quang, đặt đá khởi công ngày 30/11/1963.
-
Năm 1965: Cùng tỉnh hội Quảng Tín xin đất Mỹ Thạch lập chùa Đạo Nguyên, được Hòa thượng Thích Trí Thủ đặt tên.
-
Năm 1968: Trùng tu chùa Hòa An lần 3, lập trường Bồ Đề và cơ sở sản xuất hương đèn để tạo tài chánh cho Giáo hội.
-
Năm 1972 – 1973: Khai sơn chùa Hưng Quang (Tam Xuân), an vị tượng Phật Thích Ca tại Thiên Long Thạch Động (chùa Hang) và dựng tượng Quan Âm tại đập Bà Quận. Mua đất lập chùa Diệu Quang (Hòa Hương) và khai sơn chùa Từ Quang (Tam Tiến).
Hòa thượng cũng được mời làm Tôn chứng Tăng-già tại nhiều giới đàn, tham gia Ban Tổ chức giới đàn Vĩnh Gia (1970), và vận động xây dựng, trùng tu nhiều chùa trong tỉnh.
Hoằng Pháp, Truyền Giới và An Cư
Sau năm 1975, kinh tế khó khăn, Hòa thượng đã tập hợp chư Tăng khu 3 về chùa Từ Quang an cư kiết hạ. Ngài làm Hóa chủ đạo tràng, vận động tín thí cúng dường tứ sự để Tăng chúng không còn phải mang gạo đến an cư.
Hòa thượng tổ chức giới đàn, truyền Sa-di, Thập thiện, Bồ-tát giới, cung thỉnh Hòa thượng Thích Thiện Duyên làm Đàn đầu, ngài làm Giáo thọ A-xà-lê. Trọn đời, Hòa thượng đào tạo trên 50 đệ tử xuất gia, nhiều vị nay là trụ cột hoằng pháp, tiếp nối hạnh nguyện Tổ sư.
III. Thời Kỳ Hóa Duyên Hoàn Mãn
Cuối đời, Hòa thượng chuyên tâm tịnh dưỡng, niệm Phật, trao truyền Phật sự cho đệ tử. Đầu năm 1990, ngài mắc trọng bệnh, ngày 20/6 Canh Ngọ họp chúng, giao chức trụ trì cho Hòa thượng Thích Thiện Tường.
Đêm 20/7 Canh Ngọ, ngài gọi đệ tử vào phòng, cho mời Hòa thượng Thích Thiện Duyên vào thăm. Đến 1h25 phút sáng 21/7 Canh Ngọ (1990), Hòa thượng chắp tay, an nhiên thị tịch.
Hóa duyên đã mãn – Sanh tử viên thành – Phạm hạnh đã trọn. Cuộc đời ngài là tấm gương sáng của một bậc cao tăng: “Việc gì cần làm đã làm xong – trở về nơi phải trở về”.