Bài viết này là một cố gắng nhận diện và miêu tả những tinh thần tiêu biểu nhất của Đạo Phật Khất sĩ trước khi hòa nhập vào ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981-2022) và trở thành hệ phái Khất sĩ.

Bốn tinh thần ấy gồm: (1) Tinh thần chấn hưng tất cả phương diện; (2) Tinh thần giữ gìn giềng mối nguyên vẹn và thuần khiết; (3) Tinh thần triển khai và lan tỏa ánh đạo thiêng liêng; (4) Tinh thần triển khai lan tỏa và dấn thân sống tốt đạo đẹp đời. Cuối bài là sự kiện thống nhất Phật giáo mở ra một chương mới. Đây là sự kiện mà Ni trưởng Huỳnh Liên hăng hái và hồn hậu gọi là “Sen nở đầy hồ”.

I. Tinh thần chấn hưng Phật giáo đa phương diện của Tổ sư Minh Đăng Quang

31-1

Tổ sư Minh Đăng Quang sinh vào nửa đầu thế kỷ XX. Lúc ấy là lúc mà yêu cầu chấn hưng Phật giáo đã chín mùi theo nghĩa: Phật giáo không còn dư địa để sa sút hơn nữa, không có chỗ thụt lùi thêm nữa, không còn chọn lựa nào khác: Hoặc là chấn hưng hoặc là không còn tồn tại với tư cách là một tôn giáo đúng nghĩa. Quãng thời gian hoằng pháp của Tổ sư kéo dài 08 năm rơi vào ngay khoảng giữa thế kỷ XX (1946-1954). Quãng thời gian hoằng pháp này thực chất là quãng thời gian mà Tổ sư chấn hưng Phật giáo ở tất cả phương diện. Phật giáo bao gồm những thứ gì mà ta có thể nghĩ ra thì Tổ sư chấn hưng tất cả những thứ ấy. Nghĩ đến tôn giáo thì ta có thể nghĩ đến những thứ như:

+ Giáo lý: Học thuyết chính và hệ quy chiếu

+ Giáo điển: Kinh điển mang tính thiêng để đọc tụng hành trì theo thời khóa, kinh điển mang tính triết luận để đọc hiểu và chiêm nghiệm; kinh điển mang tính giáo luật để thu thúc và thi hành.

+ Giáo sản: Tự viện, thiết kế và quản lý tự viện

+ Giáo nhân: Thu nhận, quản lý và giáo dục nhân sự

+ Phương thức tu hành, thời khóa hàng ngày, họp hội thường kỳ hằng tháng và lễ tiết hằng năm

+ Quy chế chung nhất tổng thể, quy định cụ thể hơn và nội quy để hiện thực hóa quy chế và quy định

+ Sắc phục, phương thức tạo sắm ra sắc phục và cách sử dụng sắc phục, kể cả cách tận dụng hay tái sinh sắc phục; thức ăn, phương thức để có thức ăn, cách thọ thực và cách ứng xử với tàn thực hay thức ăn thừa.

“…mang phong cách bình dân, tụng niệm bằng thi ca, đầu đội trời, chân đạp đất, ba y một bát thong dong trên mọi nẻo đường, ăn chay thuần tịnh, giảng pháp đi vào lòng người… có khả năng chuyển hóa nhân tâm,…

Tổ sư Minh Đăng Quang chấn hưng Phật giáo từ chuyện nhỏ nhất, chi tiết nhất đến chuyện to lớn vĩ mô nhất, từ chuyện hữu hình như bất động sản, cốc am, vật dụng đến chuyện siêu hình như: Hệ tư tưởng, hệ quy chiếu, vũ trụ quan, nhân sinh quan…

II. Tinh thần nhất mực gìn giữ độ thuần khiết của truyền thống mà Tổ sư dựng lập, tiêu biểu là Đức Nhị tổ Giác Chánh

Tổ sư thọ nạn và vắng mặt mãi mãi, còn lại là nhóm đệ tử của Tổ sư trong cơn khủng hoảng sống còn. Tuy gọi là Giáo hội Tăng già nhưng thực tế chỉ là một tổ chức sơ khai nếu tính độ dài lịch sử chừng bảy tám năm và nhỏ bé nếu tính tổng số Tăng, Ni lúc ấy. Nhiều người cứ nghĩ tổ chức này sẽ tan rã nay mai. Tuy nhiên, câu chuyện đã diễn ra rất khác. Kinh điển nhà Phật có câu chuyển tải một chân lý vượt thời gian: “Cái gì là lõi cây cái ấy sẽ tồn tại”. Ta có thể diễn đạt hơi khác một chút: Cái gì là thực chất cái ấy sẽ tồn tại.

“… Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ni sư Huỳnh Liên càng nhiệt tình cống hiến cho sự nghiệp đoàn kết Phật giáo, thực hiện Đại đoàn kết dân tộc với hạnh nguyện Tốt Đạo Đẹp Đời làm rạng danh Phật giáo trong xây dựng thời đại mới Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”.Thực chất ấy là gì? Thực chất ấy khi biểu diện ra ngoài thì sẽ như thế nào? Ai là người sống trung thành nhất với thực chất ấy đến độ trở thành biểu tượng của thực chất?

Câu trả lời lần lượt sẽ như sau:

Thực chất ấy chính là cái chất thật tu hay chân tu theo nghĩ hẹp nhất của từ vựng này. Đó là con đường của Phạm hạnh, của Đạo Phật nguyên chất. Nói theo cách nói của sơn môn thì sẽ là: Cả thân lẫn tâm, cả trí lẫn tánh đều hướng đến mục tiêu rốt ráo là cảnh giới giải thoát giác ngộ, cảnh giới của chư Phật, chư Bồ tát mười phương ba đời.

Khi biểu diện ra ngoài thì thực chất ấy có sức cảm hóa rất mạnh. Bằng chứng là Giáo hội Tăng già sau khi Tổ sư vắng bóng tuy có nhất thời có chao đảo nhưng tựu trung vẫn tồn tại và phát triển vững chải. Có người được cảm hóa mà xuất gia thành Tăng hay Ni, có người được cảm hóa mà trở thành thiện nam, tín nữ.

Vị có công đầu trong việc gìn giữ giềng mối của dòng truyền thừa là Đức Nhị tổ Giác Chánh. Có người đã miêu tả phạm hạnh của người như một vì sao di chuyển ngang qua bầu trời của đêm đen để ai đủ thiện duyên có thể nhìn thấy và cứ nhìn thấy là bình an và hạnh phúc. 

III. Tinh thần tận lực triển khai giềng mối Đạo Phật Khất sĩ của các vị đại đệ tử của Tổ sư Minh Đăng Quang, tiêu biểu là Pháp sư Giác Nhiên và các Đức Thầy lãnh đạo các giáo đoàn

Tổ sư không có mặt, trách nhiệm dẫn dắt Giáo hội Tăng già đặt trên vai những đệ tử hàng đầu của Tổ sư mà trong sơn môn thường gọi là các Đức Thầy. Minh sư xuất cao đồ, các Đức Thầy đã thực hiện xứng đáng vai trò, giữ gìn và
phát triển truyền thống mà Tổ sư dựng lập. Đức Nhị Tổ Giác Chánh thể hiện trọn vẹn hình ảnh phạm hạnh thanh khiết và chiều sâu của cõi đạo vô biên trong khi các Đức Thầy thì thể hiện vai trò của những nhà du phương giáo hóa, đem ánh sáng mới, sinh lực mới của đạo lành đến những địa bàn mới, thành lập những giáo đoàn mới để hoằng pháp lợi sinh. Ni trưởng Huỳnh Liên thành lập Giáo hội Liên Hoa, Pháp sư Giác Nhiên và sau đó là Thượng tọa Giác Huệ thành lập các Giáo hội Tăng già. Các Đức Thầy khác đều có công lao rất lớn khi làm cho mối đạo lan tỏa khắp các tỉnh thành miền Trung, duyên hải và cao nguyên, miền Đông và miền Tây Nam Bộ, kể cả những nơi mà ngày nay gọi là vùng sâu vùng xa. Chỉ khoảng 20 năm, tinh thần dấn thân không mệt mỏi của thế hệ các Đức Thầy đã làm tăng thêm hàng trăm ngôi tịnh xá. Cứ như vậy, tịnh xá tiếp nối tịnh xá, đạo tràng tiếp nối đạo tràng, song song với độ quy ngưỡng của cư gia bá tánh. Đạo Phật Khất sĩ đã sâu rễ bền gốc và tiếp tục là nguồn năng lượng phạm hạnh và nhu hòa, trí tuệ và yêu thương, cho đến ngày nay.

IV. Tinh thần tích cực triển khai giềng mối Đạo Phật Khất sĩ song song với sự nghiệp dấn thân vì nghĩa lớn của dân tộc, thể hiện tâm từ ái vô biên đối với tha nhân và sự kết hợp nhuần nhuyển giữa sống đạo và giúp đời, tiêu biểu là Ni trưởng Huỳnh Liên

Từ khi Tổ sư vắng bóng cho đến khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN/Giáo hội) vào năm 1981, Ni trưởng Huỳnh Liên là trường hợp tiêu biểu cho việc song song phụng hiến cho cả hai mặt đạo pháp và dân tộc. Về mặt đạo pháp, Ni trưởng hết lòng gìn giữ và tích cực triển khai giềng mối Khất sĩ. Ni trưởng là một vị nữ tu ôn nhu hiền hòa nhưng vẫn kỹ cương trong việc nhiếp phục ni chúng giáo hóa nhân sinh, đồng thời sở hữu một nguồn năng lượng đủ mạnh trong việc thành lập một giáo hội với đầy đủ những thiết định mà một giáo hội cần phải có để đạt được nền tảng pháp nhân pháp lý chính danh. Về mặt dân tộc, Ni trưởng là một kỳ tích.

Năm 2022, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ni trưởng, một hội thảo đã được tổ chức và thu hút hơn 170 bài tham luận, trong đó không ít là những tham luận có giá trị đối với ngành khoa học lịch sử, xã hội, chính trị, đạo đức và văn hóa. Đặc biệt sống động là sự tham gia của những người từng vào sinh ra tử với Ni trưởng, sụt sùi kể lại những diễn tiến kịch liệt [1] khi mặt đối mặt với kẽm gai, dùi cui, vòi rồng, hơi cay; mặt đối mặt với nguy cơ trước mắt là bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn và tù đày. Những mảnh lịch sử ấy có người với ký ức tốt còn ghi rõ có người đã nhạt nhòa vì tuổi tác [2]. Dù vậy, những mảnh lịch sử của quá khứ hào hùng ấy vẫn tiếp tục làm lay động lòng người, đánh thức thiên lương của những người đang sống trong hiện tại.

Trong thời kháng chiến, Ni trưởng một mặt công khai tham gia các phong trào đấu tranh đô thị [3] ở Miền Nam Việt Nam, một mặt bí mật ủng hộ các lực lượng cách mạng nội thành, góp phần cho thắng lợi sau cùng. Dưới đây là một vài thông tin tiêu biểu trích xuất từ Kỷ yếu Hội thảo Ni trưởng Huỳnh Liên:

+ Nhiều cán bộ Thành Đoàn hoạt động bí mật như: Sinh viên Y khoa Dương Văn Đầy, sinh viên Khoa học Lê Công Giàu (cán bộ Thành đoàn bí mật), chú Nguyễn Vĩnh Nghiệp (cán bộ lãnh đạo Thành ủy bí mật) cũng được Ni sư che giấu và nuôi dưỡng tại Tịnh xá.

+ Tịnh xá Ngọc Phương đã âm thầm trở thành cơ sở cách mạng, nuôi dấu cán bộ, làm nơi hội họp; đồng thời tiếp tế vật dụng, thuốc men, lương thực… cho Ban Kinh tài, Ban Văn nghệ Tây Nam Bộ, Ban An ninh liên quận 4, Mật khu Long An, Chiến khu D.

 

+ Tịnh xá Ngọc Phương là cơ sở đóng góp tài lực lớn của nhiều đơn vị cách mạng như tỉnh Gia Định, Ban Kinh tài Khu 8 Tây Nam Bộ, Ủy ban Nhân dân Cách mạng huyện Duyên Hải, Thành đoàn TP Sài Gòn, Thành hội Phụ nữ, Liên Quận ủy 4, Ban Cán sự K.41, K.42, K.43, từ năm 1965-1975.

+ Ông Ung Ngọc Ky, Phó Chủ tịch Mặt trận thời 1945, đã khẳng định Ni sư không chỉ là một “chiến sĩ” mà là một anh hùng trong thời cuộc biến loạn khôn lường.

+ Hành trạng và những cống hiến của Ni trưởng Huỳnh Liên trong quá trình tham gia hoạt động cho các phong trào yêu nước thời bấy giờ có thể nói là vô cùng phong phú. Đó là một chặng đường đấu tranh gian khổ, nhưng sáng ngời ý chí kiên cường của một bậc cao đức dạt đào tấm lòng thương dân yêu nước. Nhìn chung, những cuộc biểu tình do Ni trưởng tổ chức, đích thân xuống đường, dẫn đầu đốc thúc đã tạo nên một khí thế đấu tranh ngút trời… Ni trưởng đã góp phần nhất định vào sự nghiệp giải phóng của toàn dân tộc… góp phần quan trọng trên trang sử Phật giáo nước nhà trong giai đoạn lịch sử cận hiện đại của Phật giáo trong lòng dân tộc.

V. Hệ phái Khất sĩ hòa nhập vào ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Tinh thần chấn hưng là tinh thần chủ đạo trong thời dựng lập tông phong. Tiếp nối và bổ sung cho tinh thần chấn hưng là tinh thần dấn thân phụng hiến cho Đạo pháp và dân tộc khi Phật giáo rơi vào pháp nạn, đất nước bị ngoại bang xâm phạm. Khi hòa bình lập lại thì tinh thần chủ đạo là tinh thần hòa hợp đoàn kết, hết lòng phụng sự và góp phần công sức trong GHPGVN – ngôi nhà chung của Phật giáo, và trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam – ngôi nhà chung của dân tộc.

Lộ trình đưa đến sự ra đời của GHPGVN là lộ trình mà các giáo hội và giáo đoàn Tăng Ni Khất sĩ [4] hết lòng tham gia ngay từ nguồn mạch sơ khởi với Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước, sau đó là giai đoạn tỏ rõ ý chí với Ban Vận động Thống nhất Phật giáo. Kết quả là GHPGVN chào đời, sự kiện của hai ngàn năm Phật giáo Việt Nam. Đứng trước thành quả rực rỡ ấy, Ni trưởng Huỳnh Liên đã vỡ òa cảm xúc và ứng tác bài thơ “Sen nở đầy hồ”.

Ni trưởng Huỳnh Liên đã hết lòng đóng góp và đóng góp xứng đáng trong từng giai đoạn của lộ trình ấy. Tiến sĩ Bùi Hữu Dược [5] đã trình bày trong một tham luận về sự dấn thân phụng sự không mệt mỏi trước và sau 1981 của Ni trưởng Huỳnh Liên qua các cương vị khác nhau [6]. Phái đoàn của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam tham gia Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo có 06 thành viên Đại biểu, do HT. Giác Nhu (1912-1997) làm Trưởng đoàn, HT. Giác Phúc (1936-2018) làm Phó đoàn, Ni sư Tố Liên làm Thư ký đoàn… HT. Giác Toàn và Ni trưởng Huỳnh Liên cùng tham gia với tư cách là Ủy viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo [7].

Tham luận ấy chốt lại: “.. Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ni sư Huỳnh Liên càng nhiệt tình cống hiến cho sự nghiệp đoàn kết Phật giáo, thực hiện Đại đoàn kết dân tộc với hạnh nguyện Tốt Đạo Đẹp Đời làm rạng danh Phật giáo trong xây dựng thời đại mới Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa” [8].

Ta có thể khẳng định tinh thần của Ni trưởng Huỳnh Liên không chỉ là tinh thần chung của Đoàn Đại biểu Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam mà còn là tinh thần chung mang tính chủ đạo của đa số Tăng Ni Khất sĩ cả nước trước và sau sự kiện GHPGVN ra đời.

Thay lời kết

Khi nói về Hệ phái Khất sĩ, Trưởng lão Hòa thượng Tiến sĩ Thích Trí Quảng, nguyên là Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, hiện nay là Quyền Pháp chủ HĐCM GHPGVN đã nhận định: “…mang phong cách bình dân, tụng niệm bằng thi ca, đầu đội trời, chân đạp đất, ba y một bát thong dong trên mọi nẻo đường, ăn chay thuần tịnh, giảng pháp đi vào lòng người… có khả năng chuyển hóa nhân tâm, đặc biệt là quần chúng bình dân ở miền Nam. Nhờ đường lối này, ngày nay, các tịnh xá của Hệ phái Khất sĩ đã có mặt hầu hết tại các tỉnh thành từ Cà Mau cho đến tỉnh Quảng Trị” [9]. Với thế mạnh của Giáo hội nếu có đường hướng đúng và nhân sự tiêu biểu, có uy tín, có sức quy tụ thì Giáo hội sẽ phát huy được trí tuệ tập thể, tinh thần lục hòa, đoàn kết, phát huy tính sáng tạo, giữ vững niềm tin Đạo pháp của các thành viên Tăng Ni, Phật tử cả nước. Qua đó, thực hiện có kết quả, đồng bộ qua các mặt hoạt động của Giáo hội từ Ban, Viện Trung ương Giáo hội cho đến các tỉnh, thành hội Phật giáo trong toàn quốc [10].

Chỉ khoảng 20 năm, tinh thần dấn thân không mệt mỏi của thế hệ các Đức Thầy đã làm tăng thêm hàng trăm ngôi tịnh xá. (Ảnh TỊNH XÁ NGỌC VIÊN – VĨNH LONG) – Nguồn: sưu tầm

TT.TS Thích Minh Thành

Chú thích:

[2] Năm 2022, Ni trưởng đã 100 năm, những người đồng thời đồng song với Ni trưởng hẳn đã 80 – 90 năm tuổi. Cần lắm những chính sách châm chút đãi ngộ ân cần và chu đáo.

[3] Năm 1945 khi vừa tròn 22 tuổi, do ảnh hưởng tư tưởng cách mạng của người cậu là đảng viên Lê Quý Đàm nên cô gái trẻ Nguyễn Thị Trừ cùng với bạn bè hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh giành chính quyền ở địa phương.

[4] Dù trước đó Sơn môn Khất sĩ đã chọn làm người ủng hộ, hỗ trợ, hợp tác, thậm chí là chung sức chung lòng trong một số công việc chung mà không chọn gia nhập vào ngôi nhà chung Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Những lý do của sự chọn và không chọn này khá tế nhị, người viết không tiện trình bày ở đây.

[5] Nguyên Vụ trưởng Vụ Phật giáo Ban Tôn giáo Chính phủ, Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.

[6] Bùi Hữu Dược (2022), “Ni sư Huỳnh Liên – Tấm gương Đạo và đời hòa hợp” đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Ni trưởng Huỳnh Liên (sẽ xuất bản)

[7] Nguyễn Thanh Hải (2022), “Đóng góp của Ni trưởng Huỳnh Liên trong tiến trình Thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam” đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Ni trưởng Huỳnh Liên (sẽ xuất bản).

[8] Bùi Hữu Dược (2022), sđd.

[9] Đồng chủ biên (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hệ phái Khất sĩ – Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, Nxb Hồng Đức, tr.xxiv.

[10] Nguyễn Văn Thanh (2016), “Giáo hội Phật giáo Việt Nam với việc phát huy những giá trị của hệ phái Phật giáo Khất sĩ” đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hệ phái Khất sĩ – Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, Nxb Hồng Đức, tr.933.

Tài liệu tham khảo:

Nguyễn Đại Đồng (2012), GHPGVN Từ Đại hội đến Đại hội (1981 – 2012), Nxb Tôn Giáo, Hà nội.

Đồng chủ biên (2022), Kỷ yếu Hội thảo Phát huy vai trò Tăng Ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hà nội.

Đồng chủ biên (2007), Kỷ yếu Hội thảo Kỷ niệm 25 năm Thành lập GHPGVN, Văn phòng trung ương giáo hội.

Đồng chủ biên (2016), Giáo hội Phật giáo Việt Nam – 35 năm hình thành và phát triển, Nxb Hồng Đức.

Đồng chủ biên (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hệ phái Khất sĩ – Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, Nxb Hồng Đức.

Đồng chủ biên, Kỷ yếu Hội thảo Ni trưởng Huỳnh Liên (sẽ xuất bản).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Xu thế biến đổi trong Kiến trúc, cảnh quan chùa Huế
Kiến trúc-Mỹ thuật, Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Phật giáo Huế với một bề dày lịch sử, gắn liền với thăng trầm vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân xưa, đã hàm chứa, bảo tồn được nét riêng có trên nhiều mặt của yếu tính truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, trong chiều hướng phát triển của xã hội thì trong...

Tín ngưỡng thờ Long Vương trong Phật giáo Nam bộ
Nghiên cứu, Văn hóa

Tượng Long Vương ở Tổ đình Hội Khánh (Bình Dương). LONG VƯƠNG TRONG PHẬT GIÁO Trong Phật giáo, rồng là một trong Bát bộ chúng thủ hộ Phật pháp. Lãnh tụ của Long tộc gọi là Long Vương, có đầy đủ uy lực lớn mạnh, thường theo bảo vệ Phật. Trong các kinh sách Phật...

Vai trò nhập thế qua những biểu hiện, một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm phát huy vai trò của nữ Phật tử
Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân loại. Ở phương diện tích cực, chúng phục vụ nhiều nhu cầu, đem lại hiệu suất làm việc cao cho con người. Song ở phương diện tiêu cực, chúng khiến đời sống tinh thần đứng...

Các công chúa triều Trần với đạo Phật và chốn thiền môn
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Khi công chúa Thái Đường mắc lỗi, triều đình tịch thu điền trang của bà sung vào ruộng quốc khố. Bà bèn đi tu ở chùa Nghĩa Xá, gần Lạc Quần (Xuân Trường). Thời nhà Trần, đạo Phật được nhân dân Đại Việt rất coi trọng và tôn sùng. Các vua Trần từ Trần Thái...

Đóng góp của gia đình danh y Lê Hữu Trác đối với Phật giáo Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Với việc xây chùa Tượng Sơn, gia đình đại danh y Lê Hữu Trác có những đóng góp nhất định đối với Phật giáo Hà Tĩnh. Tượng Sơn tự cũng là nơi Hải Thượng Lãn Ông dành phần lớn thời gian lưu lại chùa để bốc thuốc, chữa bệnh cứu người và hoàn thành...

Nghiên cứu về một vài ngộ nhận đối với lịch sử phát triển Ni đoàn
Lịch sử, Nghiên cứu

TÓM TẮT Từ khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã cho phái nữ xuất gia thành Tỳ kheo Ni với điều kiện là thọ trì Bát kỉnh pháp. Có Ni giới, hàng xuất gia của Đức Phật được tăng đông lên. Tứ chúng của Đức Phật trở nên đầy đủ. Sự xuất hiện của...

Đức Từ Cung với sự phát triển và chấn hưng Phật giáo xứ Huế từ những năm 30 đến những năm 80 Thế kỷ XX
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Đức Từ Cung hay Đoan Huy Hoàng thái hậu không chỉ quan tâm chăm lo hương khói, cúng tế tổ tiên nhà Nguyễn, mà còn là một tín đồ thuần thành của Phật giáo. Trên cương vị Hoàng Thái hậu triều Nguyễn, bà Từ Cung đã có nhiều đóng góp trong công cuộc chấn...

Kiến trúc chùa Huế
Chùa Việt, Kiến trúc-Mỹ thuật, Nghiên cứu

Với lối kiến trúc đặc trưng nhưng vẫn nằm trong dòng chảy kiến trúc đặc trưng của những ngôi chùa Việt, chùa Huế thực sự đã tạo ra một dấu ấn đậm nét đối với khách thập phương. Với nét đặc trưng đó những ngôi chùa xứ Huế không chỉ góp phần làm phong phú cho...

Nét đẹp Chư Tăng trong mùa An cư Kiết hạ
Nghiên cứu, Văn hóa

Chúng ta sẽ cảm nhận được nét đẹp tuyệt vời, một nghệ thuật siêu việt của cái thiêng liêng được toát ra từ sâu thẳm trong tâm hồn của chư Tăng, Ni. Nét đẹp đó, được phát ra từ nội tại của những con người mang những hoài bảo, những lý tưởng hướng thiện và...

Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Của Chiếc Áo Cà Sa
Nghiên cứu, Văn hóa

Gốc tiếng Phạn của chữ cà-sa là kasaya. Nhưng thật sự chữ kasaya trong tiếng Phạn không có nghĩa là áo mà có nghĩa là bạc màu, cáu cặn hay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt), trọc hay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sa của người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèo nàn,...

Chùa Kim Cang trong mối quan hệ với dòng thiền Liễu Quán ở Tây Nam bộ
Kiến trúc-Mỹ thuật, Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Bài nghiên cứu tập trung vào hai nội dung chính, thứ nhất, tìm hiểu khái quát về lịch sử dòng thiền Liễu Quán mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam; thứ hai, đề cập lịch sử hình thành chùa Kim Cang. Đây là ngôi chùa cổ, có nhiều đóng góp trong quá trình...

Đức Phật nhà văn hóa lớn của nhân loại
Lịch sử, Nghiên cứu, Sự kiện, Văn hóa

Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là cuộc đời hoằng hóa và hệ thống giáo lý của Ngài đã cống hiến cho nhân loại nhiều đóng góp quan trọng và ý nghĩa. Nhà Phật học H.W. Schumann đã phát biểu về Đức Phật trong tác phẩm thời danh của Ông, nhan đề Đức Phật lịch sử (The Historical Buddha) rằng: “Rất hiếm nhân vật trong lịch sử tư tưởng nhân...

Về văn bản Sự ly dung thông
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715) là một tác gia văn học Phật Giáo thời Hậu Lê. Ngữ lục cho biết sư biên soạn, biên dịch được 20 tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm này đều viết theo hai thể chữ hán và Nôm, vừa dịch giải vừa biên soạn.  Trong số sách dịch...

Đóng góp của thiền phái Liễu Quán trong việc khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất phương Nam
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Từ khi xuất hiện cho đến khi tổ Thiệt Diệu Liễu Quán viên tịch, dòng thiền Liễu Quán được thắp sáng và lan tỏa chánh pháp bởi các đệ tử và các pháp tôn. Trong các thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XIX, Thiền phái Liễu Quán ra đời, phát triển và mở...

Tục Bầu Hậu Phật qua một số văn bia ở Thanh Hóa
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

DẪN NHẬP Bầu Hậu Phật, lập Hậu Phật là hoạt động văn hóa trong sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo ở làng xã nước ta trước đây. Người gửi hậu Phật có thể là do hoàn cảnh, nhu cầu và mục đích khác nhau, nhưng tựu trung, hoạt động này phản ánh tâm linh, tư...

Phổ hệ truyền thừa thiền phái Liễu Quán tại Khánh Hoà
Lịch sử, Nghiên cứu

Thiền phái Liễu Quán, một trong năm thiền phái của dòng thiền Lâm Tế có sự ảnh hưởng lớn ở nước ta. Trong dòng chảy lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế tại Việt Nam, Liễu Quán tuy ra đời muộn nhưng là dòng thiền có phạm vi rộng khắp bởi tính bản địa....