Giác Hải Vô Biên, Hồi Đầu Tức Thị Bỉ Ngạn

覺海無邊回頭即是彼岸

Đời người là một cuộc hành trình dài, nhưng lại ngắn ngủi đến không ngờ. Ta khởi đi từ đâu và đích đến là đâu? Câu hỏi ấy không cần ở đâu xa, mà cần sự hồi quang (quay lại nhìn) vào chính tâm mình.

Giữa biển đời mênh mông vô tận, con người mãi ngược xuôi tìm cầu tham ái. Có kẻ rong ruổi ngoài trần thế, tìm kiếm một miền an lạc ở tận đâu xa; có người hướng vào tâm linh, mong thấy Phật trong lời kinh, trong tiếng mõ. Lục Tổ Huệ Năng từng dạy: “Tâm mê tức chúng sinh, tâm ngộ tức Phật.” (心迷即眾生,心悟即佛。)(1) Người mê đi tìm Phật ở phương xa, người ngộ nhận ra Phật nơi tự tâm.”

Tâm ấy vốn sáng, vốn tròn đầy như vầng trăng Rằm, chỉ vì mây vọng tưởng che lấp mà không thấy. Một khi tâm dừng, trí hiện, thì nơi đó đã là bờ giác. Ngộ đạo không phải là đi xa, mà là trở về, trở về với hơi thở, với chính mình, với cái “biết đang biết” trong từng phút giây hiện tại.

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Thế Tôn dạy:

Không làm các điều ác,

Siêng làm các điều lành,

Giữ tâm ý trong sạch,

y là lời chư Phật dạy.”

Khi tấm màn vô minh khẽ được vén lên, người hành giả nhận ra ánh sáng chân tâm vốn chẳng đâu xa. Chỉ cần một niệm quay đầu, thuyền từ đã khởi. Lúc ấy, mộng chấp tiêu tan, tâm sáng như trăng soi trong mây bạc, đưa ta trở về với bản thể viên minh muôn thuở.

覺性圓明無所求,

回頭一念悟真修。

心靜自觀融夢執,

雲開月朗不須求。

Giác tánh viên minh vô sở cầu,

Hồi đầu nhất niệm ngộ chân tu.

Tâm tĩnh tự quan dung mộng chấp,

Vân khai nguyệt lãng bất tu cầu.

(Nghĩa: Tánh giác sáng tròn chẳng tìm đâu,

Một niệm quay đầu đến đạo màu.

Tâm lặng tự soi tan mộng chấp,

Trăng trong mây tỏ chẳng tìm cầu.) (Thích Chúc Xuân)

Khi tánh giác đã tự chiếu, người tu không còn tìm kiếm nơi ngoài. Ánh sáng ấy đưa tâm qua bờ mê, như thuyền sang sông, như mây tan để trăng hiện. Chính trong giây phút hồi đầu ấy, đạo hiển bày không ngăn ngại.Từ ánh chiếu ấy, tâm hành giả dần vượt qua bờ mê, như người đi qua sông dài nhận ra bên kia vốn vẫn là đất mình. Và trong khoảnh khắc ấy, lời kệ xưa của chư Tổ chợt vang lên giữa tịch nhiên:

覺海無邊回頭即是彼岸

菩提有路放下方得清涼

Giác Hải vô biên, hồi đầu tức thị Bỉ Ngạn.

Bồ Đề hữu lộ, phóng hạ phương đắc Thanh Lương.

(Biển giác không bờ bến, quay đầu liền đến bờ kia;

Đường Bồ-đề luôn có, buông xuống mát lành an tịnh.)

Hai câu trên không phải là lời răn, mà là bản đồ dẫn về cội nguồn. Chúng ta thường tưởng rằng Giác Hải vô biên là một đại dương xa xăm, cần phải lặn lội suốt muôn kiếp mới mong chạm đến. Nhưng sự thật, Giác Hải chính là Tâm Thể vốn thanh tịnh của chính ta, nó vô biên bởi vì nó không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian của vọng tưởng.

Giữ tâm trong sạch chính là buông bỏ. Mỗi khi ta dừng lại, nhìn thấy chính mình trong từng niệm khởi-diệt, ta đã bước qua dòng mê. Chỉ cần một niệm quay đầu, biển khổ hóa biển giác. “Giác hải vô biên” (biển giác không bờ), nhưng “hồi đầu tức thị bỉ ngạn” (chỉ cần quay lại, đã đến bờ bên kia). Người trí không tìm đạo ở nơi xa, mà tìm trong từng bước chân, từng hơi thở bình an. “Phóng hạ” (buông xuống) chính là con thuyền Bồ-đề đưa ta sang bến thanh lương.

Sự mệt mỏi, khổ đau của đời người chỉ là những cơn sóng chập chùng trên biển sinh tử này. Ta cứ mải mê bơi lội trong ảo ảnh, quay lưng lại với ánh sáng của Bờ Giác Ngộ (Bỉ Ngạn). Hồi đầu, chỉ một niệm ấy thôi là khoảnh khắc ta dừng lại sự đuổi bắt thế gian. Giống như người mê lộ giữa đêm khuya, chỉ cần dừng lại và quay mặt về hướng bình minh, thì con đường đã hiển lộ. Bỉ Ngạn không phải là nơi để đến, mà là trạng thái đã có, khi ta chấm dứt tìm kiếm và chấp trước.

An lạc không nằm ở việc hành hạ thân xác hay ép buộc tâm trí, mà ở chữ Phóng Hạ (Buông Bỏ).

  • Buông bỏ cái ý niệm phải ‘trở thành’ một ai đó.
  • Buông bỏ sự so sánh và phán xét người khác.
  • Buông bỏ sự níu kéo những điều đã qua và sự khát vọng không ngừng về tương lai.

Khi đôi tay buông lỏng, khi gánh nặng được đặt xuống, đó là khi hơi thở tự nhiên trở về với sự thảnh thơi. Thanh Lương (sự mát mẻ, an tịnh) không phải là phần thưởng, mà là hậu quả tự nhiên của việc buông xả. Tâm trí trở nên trong suốt như mặt hồ mùa thu, không gợn sóng, phản chiếu vạn pháp một cách chân thật.

Bấy giờ, người hành giả nhìn sâu vào chính mình, thì sẽ thấy bờ mê tan dần, bến giác dần hiện.Khi ấy, biển tâm lặng sóng, hương thiền lan tỏa. Cảnh giới ấy được gói trọn trong vài vần thơ sau, như cánh sen vừa hé giữa bình minh giác ngộ:

“Biển Giác Hồi Đầu”

Giác hải mênh mông gợn sóng vàng

Hồi đầu thị ngạn vượt sông sang.

Bờ mê tan nhẹ trong mây tịnh,

Bến giác hiện dần giữa ánh quang.

Phóng hạ chấp mê rời chấp ngã,

Ngộ đạo thảnh thơi tâm sáng rạng.

Một niệm quay về trong tịch tĩnh,

An nhiên tự tại cõi Niết-bàn. (Thích Chúc Xuân)

Phật không ở ngoài thế gian, mà ở ngay trong mỗi hơi thở, mỗi niệm từ bi, mỗi ánh sáng chánh niệm nơi tâm mình.

Giữa “Giác hải vô biên”, chỉ cần “Hồi đầu”, ta đã ở “Bỉ ngạn”, nơi không còn khổ đau, không còn chấp ngã, chỉ còn ánh sáng an nhiên và tâm từ vô lượng.

Biển Giác Ngộ kia vốn dĩ không có bờ, vì nó là bản thể viên mãn, không cần giới hạn. Nếu ta coi mình đang ở “bờ mê” (sinh tử), thì Bỉ Ngạn (Niết bàn) chỉ cách ta một cái quay đầu của tâm niệm. Bờ bên kia không phải là điểm đến sau cái chết, mà là trạng thái tỉnh thức ngay trong đời sống này. Chỉ cần dứt bỏ niệm vọng động, liền chạm vào sự bình yên trọn vẹn. Mê và Ngộ, chỉ cách nhau một sợi tóc. Mất và Được, chỉ cách nhau một sát-na buông lỏng.

Hãy nhớ: Quay đầu để thấy Bỉ Ngạn không xa, và Buông xả để cảm nhận Thanh Lương ngay tại đây, trong hơi thở này.

Giữa biển giác mênh mông, người tìm cầu chẳng cần vượt sóng,

Chỉ cần quay về tự tâm, nơi đó đã là Niết-bàn.”

Thích Chúc Xuân


Chú thích:

  • Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm “Phó Chúc” (phẩm 10)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

So Sánh Trung Đạo Và Trung Quán
Luận, Phật học

Sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già Uruvela, một địa danh gần Bodh Gaya ngày nay, thân thể Đức Phật tiều tụy đến mức người ta tưởng Ngài đã chết. Ngài từng chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo mỗi ngày, ngồi thiền giữa giá lạnh, không tắm rửa, không nói chuyện. Ngài hy vọng bằng cách hành hạ thân xác, sẽ đạt được giác ngộ....

Tu tập Bốn như ý túc
Kinh, Phật học

Đức Phật không dạy đệ tử mù quáng tin, ngay cả các tầng định khi thiền, mà luôn yêu cầu tự quán sát, tự chứng nghiệm, tránh rơi vào cực đoan tín ngưỡng. Phần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung Chuyển “Có bốn như ý túc...

Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận
Luận, Phật học

Qua Trung Quán Luận của Long Thọ giới thiệu rõ, sự ra đời, văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết học tư tưởng Trung đạo, kết cấu của Trung Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song cách phân chia kết cấu có khác nhau… Long Thọ (Nagarjuna)...

Phật thuyết nhất thiết Như Lai danh hiệu Đà La ni kinh
Kinh, Phật học

Hán dịch: Pháp Hiền Đại Sư phụng chiếu dịch Việt dịch: Cư sĩ Nguyện Huy dịch sang Việt văn Hòa thượng Thích Như Điển chứng nghĩa Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại Pháp dã đại Bồ Đề Đạo tràng ở nước Ma Già Đà. Khi vừa thành Chánh giác, có các chúng Bồ...

Phật thuyết kinh ‘Làm con năm người Mẹ’
Kinh, Phật học

Dẫn nhập “Một vật sinh ra, cái gì đích thân cho nó cường lực, đó gọi là Nhân; cái gì thêm thắt nhược lực vào thì gọi là Duyên” Phải chăng Đại tạng kinh Nam (cảo bản) lâu nay khép mình chùa Long Sơn Nha Trang, từ khi Hòa thượng Đỗng Minh thuận thế vô...

Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên
Luật, Phật học

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ...

Bản thể luận Phật giáo trong kinh A Di Đà
Kinh, Phật học

Cũng vậy, Thực tướng hay bản thể tối hậu trong kinh A Di Đà chính là một chỉnh thể bao gồm cả tính không (bản thể) và tính có (hiện tượng). Hai mặt mày là cùng một thể không tách rời. Trong hệ thống tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa, bản thể luận...

Giới thiệu kinh Kim Cang
Kinh, Phật học

GIỚI THIỆU KINH KIM CANG Edward Conze Dịch Việt: Nhuận Châu từ Vajracchedikā Prajñāpāramitā do Edward Conze biên tập và phiên dịch Vấn đề văn bản Bản kinh được in trong ấn bản nầy chủ yếu là của Max Müller.[1] Tôi có ghi thêm phần phân bổ trang của ông trong dấu ngoặc vuông,[2] để người đọc có...

Hạnh Phúc Bởi “Không”
Luận, Phật học

Trong dòng chảy hối hả của cuộc đời, hầu như ai cũng từng tin rằng hạnh phúc là phải “có thật nhiều”, mà quên mất rằng chính cái “Có” ấy lại là ngọn nguồn của muộn phiền. Chúng ta mặc định rằng, hạnh phúc là khi mình “Có”: có một căn nhà khang trang, có chiếc xe sang trọng, có thật nhiều tiền bạc,...

Khái niệm Phật độ qua kinh điển
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP Ngược dòng lịch sử Phật giáo Ấn Độ, có lần Đức Phật được hai anh em xuất thân trong dòng Bà-la-môn tên là Yameru và Tekula vì ngưỡng mộ giáo lý của Phật họ đã xuất gia làm Tỳ kheo. Họ cho rằng truyền bá giáo lý vi diệu thù thắng của Phật...

An Cư Kiết Hạ Theo “Tứ Phần Luật”
Luật, Phật học

An cư là chế định quan trọng trong đời sống tu tập của Tăng đoàn Phật giáo, giúp tăng sĩ ổn định tinh thần và thân thể để chuyên tâm tu học. Trong Tứ phần luật và các bộ luật Phật giáo nguyên thủy, an cư thể hiện sự quy củ, thanh tịnh của tăng...

Giới luật cư sĩ trong kinh điển Pali
Luật, Phật học

Giới luật dành cho người cư sĩ trong kinh điển Pāli, đặc biệt được làm rõ trong kinh Sigālovāda và được soi sáng bởi các nguyên lý như trung đạo, tâm từ, nghiệp và tinh tấn, không chỉ đơn thuần là những quy tắc đạo đức khô khan. Tóm tắt: Bài viết này khảo sát nền...

Sáu điểm tương đồng và hai điểm khác biệt trong ba bộ Kinh Tịnh Độ
Kinh, Phật học

Ba bộ Kinh Tịnh Độ là những bản kinh nền tảng của Tịnh Độ tông, một pháp môn Phật giáo quan trọng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, với mục đích duy nhất là dẫn dắt chúng sinh phát nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà...

Từ tín ngưỡng đến bất hoại tín
Kinh, Phật học

Trong xã hội công nghệ hiện đại ngày nay, trước làn sóng thông tin đa chiều, với vô số tin tức, hình ảnh báo chí thật hư lẫn lộn, nhiều kẻ lừa đảo, mượn đạo tạo đời, tự đánh bóng mình bằng các chiêu trò lừa bịp tinh vi, nhắm vào tâm lí ủy mị,...

Vay Trả Trả Vay (Tâm Lý Học Siêu Hình Của Phật Giáo)
Luận, Phật học

“Vay trả, trả vay” là công năng, hoạt dụng và địa vị của thức (năng-hoạt-vị thức) biến chuyển khiến vòng saṃsāra (luân hồi) luôn tiếp diễn. Có lẽ chúng ta chẳng ngỡ ngàng gì với nghi vấn: “Sau khi chết là hết?” hay “sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?”, mà nó đã quá xa xưa và cổ hủ đối với người phương Đông nói chung...

Phương pháp quán chiếu duyên khởi
Luận, Phật học

Đối với pháp Mười hai duyên khởi, Kinh và Luận dạy ta thực hành hai pháp quán. Một là lưu chuyển và hai là hoàn diệt. Quán chiếu lưu chuyển Thực tập phương pháp quán chiếu này là để thấy rõ nguyên lý duyên khởi: “Cái này sinh, thì cái kia sinh”. Nghĩa là “vô...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.