Ngã tòng mỗ dạ đắc tối chính giác, nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết-bàn, ư kỳ trung gian nãi chí bất thuyết nhất tự, diệc bất dĩ thuyết, đương thuyết. Bất thuyết thị Phật thuyết.
我 從 某 夜 得 最 正 覺 。 乃 至 某 夜 入 般 涅 槃 。 於 其 中 間 乃 至 不 說 一 字 。 亦 不 已 說 當 說 。 不 說 是 佛 說 。
“Ta từ đêm chứng được Chánh giác Tối thượng, cho đến đêm nhập Niết-bàn, ở khoảng giữa thời gian đó, thậm chí Ta không hề thuyết một chữ, cũng chẳng phải đã thuyết hay đang thuyết. Không thuyết mới là Phật thuyết”. (Kinh Lăng-già)
Đoạn kinh văn trên có thể được xem là thông điệp xuyên suốt kinh Lăng-già, và là hành trang cần thiết để chúng ta đi vào cõi “thánh trí tự chứng” của kinh Lăng-già, hay nói rộng ra là kho tàng pháp bảo của kinh điển Đại thừa.
Kinh Lăng-già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tích mà cổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ư?Kinh Lăng-già nổi tiếng là cực kỳ khó đọc, không chỉ bởi tư tưởng phức tạp mà còn bởi ngôn ngữ cô đọng. Những lời kinh văn thâm áo và quá đỗi hàm súc của kinh Lăng-già tự xưa đến nay vẫn luôn là một ngọn cao phong chót vót làm nản lòng những ai muốn vượt qua nó để đi vào cõi “Nhất thiết Phật ngữ tâm”. Đến cả bậc túc học uyên bác như Tô Đông Pha, trong lời tựa cho bản dịch kinh Lăng-già của Cầu Na Bạt Ðà La, còn phải than:
(楞 伽 義 輒 幽 眇 。 文 字 簡 古 。 讀 者 或 不 能 句 。 而 況 遺 文 以 得 義 。 忘 義 以 了 心 者 乎 。
Lăng-già nghĩa triếp u miểu. Văn tự giản cổ. Độc giả hoặc bất năng cú. Nhi huống di văn dĩ đắc nghĩa. Vong nghĩa dĩ liễu tâm giả hồ).
Ngần ấy cũng đủ để ta thấy kinh Lăng-già khó đọc, khó hiểu đến cỡ nào. Nhưng chính điều đó cũng giúp ta khi mở trang kinh thì phải đọc kinh bằng cái tâm cực kỳ cẩn trọng.
Tác phẩm Studies in Laṅkāvatāra Sutra của Đại sư Suzuki ra đời, dù đã rất lâu, quả đã đáp ứng được sự mong đợi của những người khao khát cái học Tâm tông, giúp chúng ta trút bỏ được phần nào những nỗi nhọc nhằn khi phải dò dẫm tìm hiểu từng câu, từng chữ trong mỗi trang kinh.
Phật pháp, qua mỗi thời đại, đều có những bậc long tượng xuất chúng đem trí tuệ và văn tài hộ trì Chánh pháp. Ngày trước, Pháp Tạng giảng Hoa nghiêm, Lăng-già, La Thập dịch kinh Phật, Tăng Triệu bàn Trung luận v.v…, các vị đó đều là những bậc long tượng đem cái trí xuất thế đi vào cõi ngôn ngữ để hoằng dương Chánh pháp, cho nên mỗi chữ đều là cam lồ, mỗi câu đều là pháp bảo, giúp thánh giáo được hoằng dương, mật nghĩa được khai thị, khiến cho những kẻ sơ cơ biết chỗ quy thú mà tìm về, bậc thượng căn nhân đó mà liễu ngộ. Những bậc long tượng đó đều có đầy đủ trí tuệ lẫn văn tài. Có trí tuệ mà không có văn tài thì việc hoằng pháp cũng khó đi vào lòng người, có văn tài mà không có trí tuệ thì văn chương chỉ là lời hoa mỹ. Có trí tuệ lẫn văn tài thì ngôn ngữ hoằng pháp mới thành ngôn ngữ thù thắng, mới là loại ngôn ngữ “chung thân ngôn, vị thường ngôn, chung thân bất ngôn, vị thường bất ngôn.” (Suốt đời nói mà chưa từng nói, suốt đời không nói mà chưa từng không nói) của Trang Tử. Loại ngôn ngữ đó, nói như Thoreau, sẽ “vạch ra một thông lộ đi vào sự huyền ẩn của vạn hữu” (rifts its way into the secret of things. – Walden, Holt, Rinhart & Winston, Inc., 1961, p.76).
Đại sư Suzuki cũng là bậc long tượng hiếm hoi của Phật pháp ngày nay. Bạn đọc ở Việt Nam đã quá quen thuộc với ông qua hai tác phẩm nổi tiếng là Thiền luận và Cốt tủy của đạo Phật, qua bản dịch tài tình của HT.Tuệ Sỹ và dịch giả Trúc Thiên. Ông đã dày công đem cái trí tuệ uyên bác và văn tài xuất chúng để khảo cứu kinh Lăng-già, mở ra cho chúng ta một thông lộ đi vào kho tàng tư tưởng thâm áo của kinh điển Đại thừa. Giữa rừng sách vở chú giải kinh điển hiện nay, ngoại trừ một vài tác phẩm quá đỗi hiếm hoi của những vị bậc cao tăng túc học, đạo hạnh cao thâm, còn lại thì nội dung cuốn nào cũng na ná như nhau vì chỉ toàn lặp lại kinh điển một cách hời hợt, tác phẩm Studies in Laṅkāvatāra Sutra của Đại sư Suzuki sừng sững như ngọn hải đăng soi chiếu, giúp ta xác định được phương hướng giữa biển ngôn ngữ mênh mông vô biên tế của kinh Lăng-già.
Dù muốn dù không, hơn một thế kỷ qua, chúng ta đã quen với phương thức suy tư phương Tây, quen với những thuật ngữ triết học Âu-Mỹ, nên khi tìm về cõi đạo phương Đông, ta không khỏi có ít nhiều bỡ ngỡ. Những trang cổ lục phương Đông không còn dễ dàng mở ra cho ta những chân trời tư tưởng bao la, như nó đã mở ra cho những bậc tôn túc cách đây hàng vài thế kỷ. Do vì cách thể hội ngôn ngữ và phương thức tư duy chúng ta đã có nhiều khác biệt với người xưa. Đại sư Suzuki là nhà tư tưởng trác việt phương Đông, nhưng tác phẩm này nhắm vào đối tượng là những độc giả phương Tây, nên ông giải thích kinh Lăng-già toàn bằng những khái niệm triết học phương Tây, chính nhờ thế mà ta có thể nương theo để lần về nguồn cội, và có điều kiện tìm hiểu thêm về mối tương quan giữa các khái niệm đó với Phật pháp. Tác phẩm này cũng góp phần khai mở một thông lộ cho một cuộc hội thoại giữa Đông Tây, một cuộc hội thoại mà theo triết gia Heidegger là tất yếu.
Thử xét các bản dịch kinh Lăng-già được thực hiện trực tiếp từ Phạn ngữ2, ta thấy tất cả gần như đều gặp rất nhiều trở ngại trong việc bóc lớp vỏ ngôn ngữ để giúp ta thấy hé lộ phần cốt tủy bên trong, vì có nhiều điểm mà các bản dịch đều không nhất quán. Ngay cả Đại sư Suzuki khi dịch lại kinh Lăng-già sang Anh ngữ, vẫn có nhiều đoạn kinh văn ông dịch khác rất nhiều so với bản dịch trước đó trong tác phẩm Studies in Laṅkāvatāra Sutra. Điều đó cho thấy ngôn ngữ kinh Lăng-già trong nguyên tác Phạn ngữ vốn rất uyển chuyển linh động, “duy biến sở thích” như Kinh Dịch, khiến người đọc có thể hiểu theo nhiều cách.
Kinh Lăng-già kêu gọi đến cảnh giới thánh trí tự chứng, tức kinh nghiệm thâm huyền vi diệu của nội tâm, siêu quá mọi cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Do đó, nó bất khả tư nghì và siêu việt ngôn ngữ. Trong cảnh giới nội chứng, ngôn ngữ không phải là phương tiện duy nhất để giao tiếp. Kinh Lăng-già cho thấy không nhất thiết phải sử dụng ngôn ngữ mới có thể truyền đạt được tư tưởng và cảm xúc, bởi vì ở một vài cõi Phật, chư Phật chỉ cần giáo hóa hoặc truyền thông điệp bằng cách nhìn, chau mặt, nhướng mày, hoặc mỉm cười, tằng hắng hoặc bằng các cử động khác. Kinh chép rằng trong non nước của Phổ Hiền Bồ-tát (Samantabhadra), chỉ cần nhìn suông là đủ để một người chứng được Vô sinh pháp nhẫn (Anutpattika-dharmakshānti). Thậm chí ở cõi Non Nước Chúng Hương trong kinh Duy Ma, các Bồ-tát chỉ cần nghe mùi hương cũng có thể đắc nhập luật hạnh. Hoặc tại Quang Âm cung hay Cực Quang Tịnh thiên – là cõi trời thuộc vô sắc giới – nơi đó không có âm thanh, khi những cư dân nơi cõi trời đó muốn nói với nhau thì có ánh sáng phát ra miệng thay cho ngôn ngữ. Sự tiếp thông chân lý ở cảnh giới đó không còn cần đến ngôn ngữ nữa. Tại Linh Sơn pháp hội, chỉ cần một cành hoa đưa lên là thông điệp giác ngộ được tiếp nhận bằng một nụ cười. Niêm hoa vi tiếu!
Nhưng những điều vi diệu đó chỉ hợp với những bậc thượng căn có xuất thế trí, nên các ngài tiếp cận với “chân đế” hay “đệ nhất nghĩa đế” một cách dễ dàng. Chúng ta cũng có thể may mắn cảm thụ được phần nào điều đó trong những sát-na xuất thần trong cảm xúc nghệ thuật, qua một nét họa, một cung đàn hay một câu thơ, mà nhà thơ Hồ Dzếnh gọi là “phút linh cầu”. Còn thông thường, ta không thể phủ nhận được một điều rằng ở cõi “tục đế” thiên sai vạn biệt này, ngôn ngữ vẫn luôn là “phương tiện thiện xảo” để giúp ta thể hiện sự giao tiếp về cảm xúc lẫn tư tưởng. Muốn siêu việt được ngôn ngữ để đón nhận được diệu nghĩa kinh Lăng-già thì ta vẫn phải cần đến chính ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp ta siêu việt được chính nó, nghĩa là ta phải vượt qua cái mà chúng ta dùng chính nó để làm phương tiện vượt qua. Đó quả là điều nghịch lý. Giống như ta phải vượt qua được cái bóng của chính mình. Cho nên, kinh Lăng-già luôn nhắc nhở ta phải tiếp thu ngôn thuyết như thế nào để có thể hiểu được cái “ý tại ngôn ngoại” mà nghe ra được âm thanh ngoài dây đàn, “huyền ngoại chi âm”. Suốt kinh văn luôn vang lên những lời nhắc nhở:
Chân thực ly văn tự 真 實 離 文 字。(Cái chân thực thì xa lìa văn tự).
Như Lai bất thuyết đọa văn tự pháp. 如 來 不 說 墮 文 字 法。(Như Lai không thuyết giảng pháp sa vào văn tự).
Tông thú dữ ngôn thuyết, tự chứng cập giáo pháp, nhược năng thiện tri giác, bất tùy tha vọng giải. 宗 趣 與 言 說, 自 證 及 教 法, 若 能 善 知 覺, 不 隨 他 妄 解。: (Người nào khéo hiểu được sự khác biệt giữa chứng ngộ và ngôn thuyết, giữa tự chứng với giáo pháp thời kẻ đó không còn mắc vào những kiến giải sai lầm”).3
Ẩn dụ ngón tay chỉ mặt trăng là một minh họa nổi tiếng trong kinh Lăng-già nói về mối tương quan giữa chứng ngộ và ngôn thuyết, giữa ngôn ngữ và ý nghĩa. Ta phải nương theo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng. Muốn thấy được mặt trăng thì phải hiểu được “ý tại ngôn ngoại”, phải nghe được “huyền ngoại chi âm”. Hễ cứ chấp vào kinh văn thì ta lấy ngón-tay-chỉ-mặt-trăng làm mặt trăng. Còn như chấp vào những lời luận giải của Đại sư Suzuki về kinh văn thì ta lại lấy ngón-tay-chỉ-ngón-tay-chỉ-mặt-trăng làm mặt trăng. Như vậy sẽ càng vô minh quá lắm. Cũng chính vì lý do đó, mà tác giả đã dựa theo tinh thần kinh Lăng-già để không ngừng cảnh báo bằng những lời thống thiết.
Sự tương quan giữa ngôn ngữ và ý nghĩa, hoặc giữa văn từ (akshara) và thực tướng (tattvam hoặc tathāvam), hoặc giữa ngôn thuyết (deśana) và chân lý (siddhānta), cũng giống như sự tương quan giữa ngón tay và mặt trăng. Cần phải có một ngón tay để chỉ mặt trăng, nhưng không nên chấp ngón tay làm mặt trăng. Nếu ta chấp văn tự (aksara) hoặc ngôn ngữ (ruta) hoặc ngôn thuyết (deśana) làm chính tự thân của thực tại thì điều đó cũng gây nên các hậu quả tai hại tương tự. Những kẻ nào không thể rời mắt được khỏi đầu ngón tay sẽ không bao giờ liễu ngộ được đệ nhất nghĩa đế (paramārtha) của các pháp.4
Hoặc đầy hình ảnh:
Ta phải xem văn tự, trong mức độ tương quan với ý nghĩa, như ánh trăng trong nước. Ánh trăng vẫn có đấy, song chính vầng trăng không đi vào (apravishṭam) trong nước, nhưng cũng không được xem như trăng không có chút tương quan (nirgatam) nào với nước, bởi vì cũng có một chút gì đó trong nước phản chiếu lại vầng trăng. Chỉ cần chúng ta đừng để mình rơi vào thói quen bàn suông một cách hời hợt về thực nghĩa. Ðây là lời cảnh cáo của kinh Lăng-già: “Yathārutār-thābiniveśasanidhau na prapatata.” (“Đừng rơi vào sai lầm vi tế khi chấp vào ý nghĩa như nó được diễn tả trong ngôn ngữ”).5
Lời cảnh báo đó của kinh Lăng-già giúp ta nghe lại câu nói đạm nhiên của Heidegger:
Không bao giờ và bất kỳ trong ngôn ngữ nào, cái điều phát biểu ra lời là cái điều được nói đến. (Cái được phát ngôn, không phải là cái Sở ngôn). (Trăng Tỳ Hải, Bùi Giáng dịch. NXB.An Tiêm, Sài Gòn, 1972, tr.252).
Hoặc thơ mộng của Bùi Giáng:
Thưa em ngôn ngữ quặt què,
Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên.
Trên bình diện tục đế, ngôn ngữ là phương tiện thiện xảo để diễn đạt cảm xúc và tư duy. Nhưng trên bình diện thế đế thì bản thân ngôn ngữ luôn hạn chế khi diễn đạt nội dung của kinh nghiệm do những yếu tố bất toàn của nó, bởi vì:
Vân hà vi ngữ? Vị ngôn tự vọng tưởng hòa hợp. 云 何 為 語。 謂 言 字 妄 想 和 合。(Thế nào là ngôn ngữ? Đó là nói ngôn thuyết cùng chữ viết và vọng tưởng hòa hợp mà thành).6
Bàn về Truyện Kiều, nhà thơ Bùi Giáng cho rằng phải đọc Truyện Kiều cho đến khi “… chỉ còn thấy nguyên một vùng Thiên Nhiên Thành Tượng man mắc khắp mọi nơi, hiện diện thảy thảy, đổ ra làm phong cảnh phiêu bồng, trút vào làm cảnh phong du hý, tỏa ra bốn phía làm Tam Muội Thượng Thừa thì lúc bấy giờ bất thình lình thấy ra cõi miền riêng biệt thù thắng …” (Lễ hội tháng Ba, NXB.Một Hôm Sa Mạc, Sài Gòn, 1972, tr.221).
Đọc Truyện Kiều theo cách đó cũng chính là tinh thần đọc kinh Lăng-già một cách chân chính theo thể điệu “Tam Muội Thượng Thừa.” Nghĩa là đọc kinh Lăng-già cho đến khi không còn thấy có Phật nhập nơi Niết-bàn, cũng chẳng có Niết-bàn để Phật nhập, xa lìa hai tướng hữu vô, xa lìa giác lẫn sở giác.
Nhất thiết vô Niết-bàn,
Vô hữu Phật Niết-bàn,
Nhược hữu, nhược vô hữu,
一 切 無 涅 槃,
無 有 佛 涅 槃,
若 有 若 無 有,
Vô hữu Niết-bàn Phật,
Viễn ly giác, sở giác.
Thị nhị tất câu ly.
無 有 涅 槃 佛,
遠 離 覺 所 覺。
是 二 悉 俱 離。
Đọc như thế là đặt chân vào cảnh giới mà Pháp sư Pháp Tạng gọi là:
Phù chân tâm liêu khuếch, tuyệt ngôn tượng ư thuyên đề; xung mạc hy di, vong cảnh trí ư năng sở. 夫 真 心 寥 廓, 絕 言 象 於 筌 罤; 沖 漠 希 夷, 忘 境 智 於 能 所。
(Kìa khi chân tâm rỗng rang, tĩnh tịch thì đoạn tuyệt với ngôn ngữ và biểu tượng nơi lưới, võng; lặng lẽ mênh mông thì quên cảnh, trí nơi năng sở. – Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký 大 乘 起 信 論 義 記).
Cảnh giới thánh trí tự chứng là mặt trăng, kinh Lăng-già là ngón-tay-chỉ-mặt-trăng, tác phẩm này chỉ là ngón-tay-chỉ-ngón-tay-chỉ-mặt-trăng. Ta phải tiếp thu ngôn ngữ kinh Lăng-già như thế nào để “tuyệt ngôn tượng ư thuyên đề”, và phải lắng nghe những pháp âm kia theo thể cách nào để “vong cảnh trí ư năng sở”? Tất cả đều tùy thuộc vào cơ duyên. Đọc kinh Lăng-già hay bất kỳ cuốn kinh Phật nào cũng đều tùy thuộc cơ duyên. Tạm gọi đó là gia trì lực. Nếu gặp được cơ duyên thì khi đọc cuốn bảo kinh này, ta sẽ không còn thấy ngón-tay-chỉ hay ngón-tay-chỉ-ngón-tay-chỉ đâu, mà chỉ còn thấy mặt trăng, và khi đó thì ngón-tay-chỉ, như tấm bè phương tiện, đã bị bỏ lại ở bờ phía bên kia.
Nhưng khi “chân tâm” đã “liêu khuếch”, không còn bị vướng nơi võng lưới của ngôn ngữ nữa thì trong cõi “xung mạc hy di” đó cũng không còn năng sở.Không những không thấy ngón tay đâu, mà cả mặt trăng cũng không có nốt. Tất cả đều viên dung vô ngại trong Ánh Trăng Lăng-già Toàn Nhiên Thị Hiện giữa “một vùng Thiên Nhiên Thành Tượng man mắc khắp mọi nơi” để hiển lộ cảnh giới Cứu Cánh chưa từng có mà Phương Tiện cũng chẳng từng không.
Huỳnh Ngọc Chiến
_____________
(1) Bài này ghi lại những cảm nhận của người viết sau khi đọc tác phẩm Studies in Laṅkāvatāra Sutra, (Khảo cứu kinh Lăng-già) của Đại sư Suzuki, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., New Delhi, 1998. Các đoạn Anh ngữ đều được trích từ tác phẩm này.
(2) Về Hán ngữ, các bản dịch thuộc dạng kinh điển được thì có Lăng-già A-bạt-đa-la bảo kinh 楞 伽 阿 跋 佗 羅 寶 經 của Cầu Na Bạt Đà La (Guṇabhadra), Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經 của Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci), Đại thừa nhập Lăng-già kinh 大 乘 入 楞 伽 經 của Thật Xoa Nan Đà (Śikṣānanda), và gần đây là Nhập Lăng-già kinh tân dịch 入 楞 伽 經 新 譯 của Đàm Tích Vĩnh 談 錫 永; về Anh ngữ thì có bản dịch The Laṅkāvatāra Sutra của Đại sư Suzuki. Các bản dịch Việt ngữ kinh Lăng-già hiện nay, dù công phu đến đâu thì dĩ nhiên phải có nhiều hạn chế do tất cả đều được thực hiện qua trung gian Hán ngữ.
(3) Các câu kinh văn này được trích dẫn từ bản dịch đời Đường của Thật Xoa Nan Đà.
(4) This relation between words and meaning, or between syllables (akshara) and reality (tattvam or tathātvam), or between teaching (deśana) and truth (siddhānta), is like that between the finger and the moon. The finger is needed to point out the moon but it ought not to be taken for the latter. The same disastrous result follows from regarding akshara, or ruta, or desana as the reality itself. Those who are not able to take their eyes away from the finger-tip will never realise the ultimate truth (paramārtha) of things. p.109
(5) Words are to be treated like the lunar reflection in water as far as they are related in meaning. The reflection is there, though the moon itself has not entered (apravishṭam) into the water; nor is it to be considered as standing in no relation (nirgatam) to the water, because the latter has something in it to reflect the moon. Only let us not fall into the habit of superficially taking mere words for real meaning. This is the warning of the Lankavatara: Yathārutār-thābiniveśasanidhau na prapatata. (“Do not fall into the secret error of getting attached to the meaning as expressed in words.”) p.110.
(6) Theo bản đời Tống của Cầu Na Bạt Ðà La.