Hiện nay hàng cư sỹ Phật tử tại gia đi chùa, học Phật và đóng góp công tác cho Phật giáo nhiều hạnh nguyện khác nhau; đôi khi cũng có người sống như một Duy-ma-cật (Vimalakīrti), hay một Thắng Man (Śrīmālā) v.v. Song, lâu lâu tôi lại nghe một vài Phật tử nói, luật nhà chùa người cư sỹ không được tìm hiểu đọc nó, chính tôi cũng bị nhiều người hỏi về vấn đề này. Liệu có ai thắc mắc, có phải chính đức Phật đã cấm người cư sỹ đọc luật Phật giáo? Nếu có, tài liệu nào nói? Tôi trả lời ngay câu hỏi này. Thật ra, đức Phật cấm người cư sỹ tham gia “tố tụng” tỳ-kheo, hay nghe tội, hoặc cử tội tỳ-kheo, chứ không phải cấm đọc luật tỳ-kheo. Chỉ có chuyện bà Viśākhā trình bày tội tỳ-kheo với đức Phật là trường hợp duy nhất trong giới bất định.[1] Trong chuyện này có hai điều cần chú ý: 1. Bà Viśākhā là người chứng quả Dự lưu (sotāpanna), chuẩn mực tư cách đạo đức, đủ để Tăng tin tưởng lắng nghe. 2. Khi bà thưa xong thì Tăng sẽ phán xử tỳ-kheo đó, bà không tham dự. Đây là vấn đề tế nhị nhưng quan trọng trong việc học luật, hiểu luật và hành luật. Luật đời luật đạo cũng thế.

Chúng ta trở lại lý do đức Phật cấm cư sỹ nghe tội tỳ-kheo. Câu chuyện này thuộc phần Skandhaka (Kiền-độ) của Luật tạng, tuy nhiên luật bộ phái ghi chép có sai khác chút ít.

  1. Luật Ngũ phần của Hóa địa bộ quyển 18 dẫn: Khi các tỳ-kheo bố-tát, có bạch y nghe tỳ-kheo phạm tội, bạch y đó nêu tội tỳ-kheo. Các tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy: Không nên cho bạch y và sa-di nghe tỳ-kheo bố-tát tụng giới.[2]
  2. Luật Pāli của Thượng tọa bộ (Mahāvagga [Đại phẩm], chương Uposatha [Bố-tát]) ghi: Vào lúc bấy giờ (ngày bố-tát), Devadatta tụng đọc giới bổn Pātimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) trong hội chúng có sự hiện diện của cư sỹ. Các tỳ-kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật dạy: Này các tỳ-kheo, không nên tụng đọc Pātimokkha trong hội chúng có sự hiện diện của cư sỹ. Vị nào tụng đọc, phạm dukkaṭa (đột-kiết-la).[3]
  3. Luật Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ quyển 27: Có tỳ-kheo thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, nói năm nhóm tội từ ba-la-di đến tội việt tỳ-ni cho người chưa thọ cụ túc (người thế tục) nghe, rồi tỳ-kheo đi vào thôn xóm, bị người thế tục nêu tội: “Trưởng lão phạm ba-la-di…” Sau đó, đức Phật dạy không được thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, nói năm nhóm tội cho người chưa thọ cụ túc nghe. Chỉ được phép nói: “Ngươi không được làm phi phạm hạnh, không được trộm cắp, không được sát sinh, không được vọng ngữ.”[4]
  4. Luật Tứ phần của Pháp tạng bộ cũng dẫn: “Bấy giờ, đến ngày thuyết giới, nhóm sáu tỳ-kheo làm các việc như chào hỏi và nói chuyện với bạch y, tác yết-ma thuyết giới, thuyết pháp.”[5]

Như vậy chúng ta thấy, xã hội nhà chùa trong thời kỳ đầu, lễ bố-tát thuyết giới có cư sỹ tham dự. Sau đó do phát sinh tâm khinh miệt tỳ-kheo phạm tội, hoặc vì giảm lòng tin của người cư sỹ, hay mất tín tâm đối với những người chưa có lòng tin…, điều này ảnh hưởng lớn đến Tăng đoàn mới khiến đức Phật cấm chế. Về sau, khi tông luật Tứ phần phát triển cực thịnh ở Trung Hoa, đến năm Sùng trinh thứ 16 đời nhà Minh (1643), tỳ-kheo Hoằng Tán[6] biên soạn Tứ phần giới bổn như thích, viết rằng: “Ba đời chư Phật đều thuyết kinh, luật, luận; Tạng kinh và luận đều dành chung cho xuất gia và tại gia. Riêng Tạng luật chỉ có tỳ-kheo độc trì, như kho tàng của vua, ngoại quan không được biết đến. Cho nên bạch y, sa-di mà xem trước vĩnh viễn sau này không được thọ đại giới và phạm ngang tội ngũ nghịch. Phàm làm thầy phải hết sức cẩn thận”.[7] Có lẽ Hoằng Tán y cứ vào luật Ngũ phần mà “tô điểm” thêm, đề cao Luật tạng trở thành bí truyền, tạo học thuyết hăm dọa hoang tưởng quá đáng. Từ đó về sau Phật giáo Việt Nam hành trì tông luật Tứ phần, đôi khi hưởng ứng theo “chủ nghĩa thậm xưng” của tỳ-kheo Hoằng Tán; hoặc giả một số nhà sư hiểu nhầm từ sự nghiêm cấm trên mà giảng dạy cho Phật tử không được đọc luật Phật giáo. Đây chỉ là sự ngộ nhận, vả lại xã hội thời Phật từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch chưa có bút mực biên chép thành sách thì khái niệm cấm đọc luật tỳ-kheo càng không có.

Để rộng bàn thêm về vấn đề này chúng tôi dẫn thêm vài trường hợp trong luật Tăng-kỳ nêu: Nếu trong Tăng không dập tắt được sự tranh chấp của các tỳ-kheo thì nên tìm một tỳ-kheo có đức, hay đa văn, hoặc tỳ-kheo ở a-luyện-nhã (arañña, sống nơi sơn lâm, hoang dã). Nếu không có thì tìm một ưu-bà-tắc (cư sỹ nam) có thế lực.[8] Hay câu chuyện Tăng đang bố-tát, cư sĩ Cù-sư-la (Ghoṣila) đi vào, cố ý ở lại nghe, không đi. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy, nếu người có đức hạnh cao quý muốn nghe Tăng giải quyết sự việc thì cho họ nghe. Đồng thời, nếu trong chúng có người tài giỏi, nói năng lưu loát, giải quyết sự việc phân minh thì cứ tự nhiên tiến hành. Trái lại, nếu giải quyết sự việc trước kẻ phàm phu tầm thường thì phạm tội việt tỳ-ni.[9]

Vậy rõ ràng đối với những người cư sỹ tại gia đã có tín tâm kiên cố nơi Tam bảo, dù họ có nghe lỗi lầm của tỳ-kheo đi chăng nữa họ vẫn giúp Tăng phục hoạt cho thanh tịnh, hoàn toàn không có tâm cao ngạo hủy báng Tăng. Tuy nhiên cũng có trường hợp việc của Tăng do Tăng quyết định, cậy nhờ đến quan, bạch y thì khó giải quyết – luật Thập tụng nói như vậy.[10]

Qua đây chúng ta thấy luật Phật giáo chỉ ngăn cấm hạng người hiểu biết nhiều, tâm kiêu ngạo bốc cao, bất kính Tam bảo, không có tâm đạo… Ngày nay, giới nghiên cứu luật học Phật giáo đều biết đến E. Frauwallner, Akira Hirakawa, Lamotte, I. B. Horner v.v. Họ là cư sỹ viết về Luật tạng của Phật giáo, công trình của họ để lại cho đời đáng cho người học Phật phải bái phục. Họ là cư sỹ mà thông luật Phật giáo hơn cả tu sĩ trong chùa, vậy họ có phạm tội ngũ nghịch như Hoằng Tán nói không? Phật giáo được truyền bá rộng rãi sang các nước phương Tây cũng chính nhờ họ, những gì họ làm có giá trị miên viễn cho giới học thuật.

Do đó, trách nhiệm của người cư sỹ tại gia nên đọc luật Phật giáo, đọc với mục đích gì, đọc với cái tâm ra sao mọi người tự biết. Thời Ôn Đỗng Minh còn sinh tiền hay đùa với chúng tôi, Ôn nói các nước Phật giáo Nam tông mấy ông sư không cần giữ giới, Phật tử giữ giới cho mấy ông sư. Vì họ hiểu luật lệ của nhà sư. Năm 2011, tôi qua Thái Lan thăm một người bạn, nhằm ngày “Cửu hoàng thắng hội” – tức lễ ăn chay của người Thái, từ ngày mồng 1 tháng 9 Âm lịch đến ngày mùng 10. Một hôm, chúng tôi đi chợ buổi chiều, gặp một người Thái, họ biết chúng tôi là nhà sư Phật giáo Bắc tông ăn chiều nên lấy tiền cúng dường. Điều làm tôi ngạc nhiên là người bạn của tôi không đưa tay nhận mà kéo ống tay ra để họ cúng tờ tiền lên ống tay áo. Đó cũng là một cách “linh hoạt” nhà sư không nhận tiền trực tiếp, và họ là nữ không dám đụng chạm nhà sư, vân vân. Tôi còn biết, tại các trường Phật giáo Thái Lan, môn luật Phật giáo đều có cư sỹ tham gia học tập nghiên cứu. Ngạc nhiên hơn là bộ môn đó do giáo sư cư sỹ giảng dạy.

Chúng tôi bàn thêm chuyện sa-di không được đọc luật tỳ-kheo. Điều này hồi tôi mới vào chùa đã nghe quý thấy thường nhắc nhở vậy. Trong các bộ phái chính thống chỉ có Hóa địa bộ soạn luật Ngũ phần đề cập đến sa-di. Tại sao không cho sa-di dự Tăng yết-ma bố-tát? Theo chúng tôi hiểu, lễ bố-tát sám hối, đọc giới điều của tỳ-kheo, như nêu tội tỳ-kheo đồng nghĩa xử án, luật đời như luật đạo: Tại phiên tòa xét xử, người dưới 16 tuổi không được tham dự. Trừ vụ án có liên quan, được tòa triệu tập thì người này mới được đến. Do đó sa-di chưa đủ tuổi 20 cũng vậy, họ còn nhỏ, tư tưởng chưa chín chắn, không đủ tư cách để tham dự.

Tóm lại, nếu một tỳ-kheo lui vào rừng sâu ẩn dật như con tê giác thì cư sỹ tại gia không cần học luật, hiểu luật Phật giáo để làm gì. Song le đời sống của tỳ-kheo ngày nay hòa nhập, va chạm với xã hội xung quanh quá nhiều, trách nhiệm của họ giữ luật là một lẽ, mà bổn phận của người cư sỹ cũng cần hiểu luật tỳ-kheo, hiểu căn bản thôi, có như vậy mới giúp ích cho tỳ-kheo, và lớp người cư sỹ là vành đai an toàn cho đời sống Tăng, ni và cộng đồng Tăng-già hiện nay.

Nha Trang, ngày 20 tháng 2 năm 2022.
Bhikkhu Cittacakkhu


[1] 四分律 卷 5, T22, no. 1428, p. 600b9; 彌沙塞部和醯五分律 卷 4, T22, no. 1421, p. 22c15; v.v…

[2] 彌沙塞部和醯五分律 卷18, T22, no. 1421, p. 123a17.

[3] Pāli, Vin. Mahāvagga, Uposathakkhandhako: Tena kho pana samayena devadatto sagahaṭṭhāya parisāya pātimokkhaṃ uddisati. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Na, bhikkhave, sagahaṭṭhāya parisāya pātimokkhaṃ uddisitabbaṃ. Yo uddiseyya, āpatti dukkaṭassāti.

[4] 摩訶僧祇律 卷27, T22, no. 1425, p. 448b22-21.

[5] 四分律 卷35, T22, no. 1428, p. 819a10.

[6] Hoằng Tán 弘贊 (1611-1685), sống cuối đời Minh đầu đời nhà Thanh.

[7] 四分戒本如釋 卷1, X40, no. 717, p. 193c15-18:三世諸佛。俱說經律論三藏聖教。經論二藏。咸通在家出家。惟律一藏。比丘獨持。如王秘藏。非外官所司。故白衣。沙彌。若先覽者。後永不得受大戒。罪與五逆同例。凡為師者。最宜謹慎.

[8] 僧祇律 12, p. 328a.

[9] Ibid., 27, 449b10.

[10] Cf. 十誦律 49, p. 362a03.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Năm Và Sáu
Luật, Phật học

LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon – tại vị từ 1853 – 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Tư
Luật, Phật học

I– Thuyết thứ nhất Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Ba
Luật, Phật học

Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ . Vua...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Hai
Luật, Phật học

Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, 4/ Tỳ kheo ăn xong, đi sang nơi...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Nhất
Luật, Phật học

Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan. Bấy giờ, tôn giả Đại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo:...

Tu tập tịnh giới và pháp môn Tịnh Độ
Luận, Phật học

Thầy Thích Thái Hòa giảng tại trường Hạ chùa Vạn-đức, Thủ-đức, Phật lịch 2564  I. Im lặng 1- Pháp môn Tịnh độ được thiết lập trên nền tảng của Tịnh giới Chúng ta muốn công cụ Tịnh độ thành công nên phải đặt nền tảng của Tịnh giới. Bởi vì, thế giới Tịnh độ của Phật...

Căn Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng
Luật, Phật học

CĂN BẢN GIỚI BỒ TÁT CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG Nguyên tác: Root Bodhisattva Vows modified, March 2002, from Berzin, Alexander. Taking the Kalachakra Initiation Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – Thursday, March 05, 2015 Giới Thiệu Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi “một hành...

Phổ Hiền nguyện qua cái nhìn Phật tử sơ cơ
Phật học

Phật tử tu học theo truyền thống Bắc tông thường tụng niệm mười Phổ Hiền hạnh nguyện trong mỗi khoá lễ. Hầu như ai cũng thuộc lòng, tụng như cháo chảy nhưng nhiều khi chỉ là đọc tụng theo quán tính, theo trí nhớ chứ ít khi tìm hiểu thấu đáo, hoặc là thật sự...

Hạnh nguyện của Đức Bồ tát Quán Thế Âm
Luận, Phật học

Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên...

Tánh Khởi Luận: Lý thuyết phân phối trật tự trong Hoa Nghiêm Tông
Luận, Phật học

(I) Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô. Họ khởi đầu bằng nỗ lực nghe và thấu hiểu mọi lời được nói ra. Họ nỗ lực để thấy hiểu mọi chiều hướng tác...

Bài Kinh Dài Về Tánh Không
Kinh, Phật học

BÀI KINH DÀI VỀ TÁNH KHÔNG Kinh Mahasunnata-sutta-sutta (dựa theo các bản tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna và tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu) Bản dịch Việt: Hoang Phong Tôi từng được nghe như thế này: Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha). Vào buổi...

Quy Sơn Cảnh Sách Văn
Luật, Phật học

溈山大圓禪師警策文 Quy Sơn Cảnh Sách Văn (Bài Văn Cảnh Sách Của Ngài Quy Sơn) (Đề này còn viết “Qui sơn Đại viên thiền sư cảnh sách”, nghĩa: Bài văn Cảnh sách của Đại viên thiền sư ở núi Quy sơn.) (1) 夫業繫受身。未免形累。禀父母之遺體。假衆緣而共成。雖乃四大扶持。常相違背。 Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị...

Chánh niệm phát huy khả năng nhận thức, điều tiết cảm xúc và làm chủ hành vi
Luận, Phật học

Chánh niệm viết đầy đủ trong tiếng Pali là “sammā-sati”, nghĩa là sự tâm niệm đúng đắn. Nó có nguồn gốc xuất phát từ tuyền thống thiền quán phương Đông, cụ thể là từ Phật giáo Nguyên thủy (Hart, 1987). Có mặt hơn 25 thế kỷ, thế nhưng chánh niệm mới được tiếp cận và...

Bài kinh về sự Chú Tâm Tỉnh Giác
Kinh, Phật học

BÀI KINH VỀ SỰ CHÚ TÂM TỈNH GIÁC Satipatthana Sutta (Majjhima Nikaya 10) HOANG PHONG chuyển ngữ Lời giới thiệu của người dịch Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana, nghĩa từ chương là “Sự quán thấy chuyên biệt” hay “sâu sắc”, kinh sách Hán ngữ gọi là “Minh Tuệ” hay...

Tứ diệu đế với vấn đề giáo dục đạo đức toàn cầu
Luận, Phật học, Văn hóa

TÓM TẮT Tứ diệu đế hay là bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo chính là cốt tủy cơ bản để hợp thành học thuyết nhân sinh cứu đời. Đó là kết quả suy ngẫm và trải nghiệm thông qua thực tiễn cuộc sống của chính Phật tổ và sự tổng kết những suy...

Thông Điệp Thành Đạo Của Đức Phật
Phật học, Sự kiện

Vậy là hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, kể từ một đêm khu rừng hoang vắng bên bờ sông Ni-liên-thuyền (Nairanjama), ánh trăng chiếu lờ mờ bàng bạc trong không gian hoàn toàn im ắng, cô tịch. Khu rừng chìm trong màn đêm huyền ảo, thỉnh thoảng có âm vang những tiếng muông thú kêu trong đêm trường nghe rờn rợn, tiếng côn trùng...