Luật sư Đạo Tuyên (Ảnh Wikipedia)

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ ca rất hay, năm 15 tuổi học tập đọc tụng kinh Phật, năm 16 tuổi thế phát xuất gia tại đạo tràng Nhật Nghiêm trong cổ thành Trường An, năm 20 tuổi tu hành công phu nghiêm mật. Ngài ẩn tu trong sơn lâm, thực hành định tuệ, sau dời đến chùa Bạch Tuyền trên Nam sơn, chuyển đến tinh xá Sùng Nghĩa, chùa Tịnh Nghiệp. Ngài nghiêm trì giới luật cực độtam y được dệt bằng vải thô, ngày ăn một bữa, chỉ là các loại đậu, ra khỏi chùa thì tích trượng

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ ca rất hay, năm 15 tuổi học tập đọc tụng kinh Phật, năm 16 tuổi thế phát xuất gia tại đạo tràng Nhật Nghiêm trong cổ thành Trường An, năm 20 tuổi tu hành công phu nghiêm mật. Ngài ẩn tu trong sơn lâm, thực hành định tuệ, sau dời đến chùa Bạch Tuyền trên Nam sơn, chuyển đến tinh xá Sùng Nghĩa, chùa Tịnh Nghiệp. Ngài nghiêm trì giới luật cực độtam y được dệt bằng vải thô, ngày ăn một bữa, chỉ là các loại đậu, ra khỏi chùa thì tích trượng không rời thân mình bởi lo làm tổn thương loài sinh vật trên đất, cực lực chuyên tinh thiền địnhngồi không tựa dường, thực hành bát chu tam muội (thiền định thâm sâuđạt đến tam ma địa). Khai nguyên thích giáo lục, quyển 6 của cao tăng Trí Thăng, khen ngợi về Đạo Tuyên: “Nội tinh tam học, ngoại bác cửu lưugiới hương thuần khiết….. trước thuật bất tuyệt”. Cửu lưu là chín đại lưu phái học thuật từ triều Tần đến đầu triều Hán. Cuộc đời của ngài, trước tác kinh lục, tư liệu, sử truyện v.v… gồm hơn 200 quyển.

Sau khi đại sư Huyền Trang du học Ấn Độ trở về Trung Thổ, dưới sự cổ xúy và ủng hộ của vương triều, Huyền Trang tổ chức dịch trường phiên dịch Phật điển Phạn văn sang Hán văn, ngài tiếp nhận chiếu chỉ của triều đình mà tham dự, đảm nhiệm “đại đức chuyết văn”. Ngài trùng tân truyền trao cụ túc giới, sau này ảnh hưởng thâm sâu đối với cách thức thọ giới trong đại giới đàn.

Ngài thành tựu đột phá đối với phương diện luật học. Ở chùa Bạch Tuyền, nỗ lực hơn 10 năm nghiêu cứu luật học, chù trọng sưu tầm tư liệu, thuyên thích rất nhiều ý nghĩa mới, đề xuất “phương pháp thuyên thích luật học”, “kiêm nhiếp tư tưởng Đại thừa và Tiểu thừa”, sáng lập thuyết “tâm thức giới thể” (心识戒体). Hệ thống Luật tông tinh nghiêm rộng lớn, lý luận tinh sâu. Có học giả Nhật Bản cho rằng, khi ngài tham gia dịch trường, đã ảnh hưởng tư tưởng duy thức của Huyền Trang rồi sáng lập giới thể luận. Khi Phật giáo Ấn Độ mới du nhập Trung Thổ, về khía cạnh giới luật, chủ yếu là lý giải và hoằng dường một bộ luật đơn giản của Ấn Độ, nên nội hàm chưa thoát khỏi phạm trù bộ phái Phật giáo Ấn Độ, nhưng đến thời ngài thì “Ngài ảnh hưởng tư tưởng phán giáo và Nhất Phật thừa trong kinh Pháp Hoa rồi phát khởi, bắt đầu vận dụng quan điểm Phật pháp Đại thừa một cách rộng lớn, để lý giải nguyên bản được cho là thanh văn luật thuộc về Tiểu thừa. Và dung phương thức biểu đạt khác nhau của ba tông: Thực pháp tông, giả danh tông và Đại thừa viên giáo tông một cách xảo diệu”, xây dựng hàm nghĩa Đại thừa thanh văn luật trong Tứ phần luật”

Luật sư Hoằng Nhất là một Luật tăng nổi tiếng thời cận đại, sau khi nỗ lực học tập giới luậtbiên soạn thư tịch luật học, phục hưng Luật tôngHoằng Nhất từng cất công chỉnh lý và hiệu chú nhiều bản điển của ngài, nắm vững phả mạch phát triển của Luật tông, có nhận thức rất thâm sâu đối với Nam sơn luật học, cho rằng “Luật sư Đạo Tuyên sở lập Luật tông trên núi Chung Nam, dựa vào nghĩa lý của kinh Pháp Hoa, kinh Niết-bàn, còn giải thích thông suốt Tiểu thừa luậtthiết lập viên tông giới thể, chánh thuộc về sở học của người xuất gia, cũng làm sáng tỏ ý nghĩa năm giới, tám giới của tại gia”. Lúc Hoằng Nhất mới nghiên cứu luật học, vốn xem nhẹ Luật tông mà chuyên nghiên cứu Căn bản Thuyết nhất thiết Hữu bộ luật, sau đó có một vị cư sĩ khuyên ngăn, dần dà kiêm nghiên cứu tôn chỉ của Luật tông, mãi đến khi đọc xem giới thể luận của Luật tông, mới buông rời Hữu bộ luật, đứng trước tượng Phật phát nguyện rằng: chuyên  tham cứu Luật tông, và nỗ lực hoằng dương.

Đạo Tuyên quy kết giới học thành bốn khoa, còn gọi giới tứ biệt (戒四别). Một là giới pháp, hai là giới thể, ba là giới hạnh, bốn là giới tướng

Giới pháp là chỉ cho pháp của đức Phật chế định, luật nghi của hàng xuất gia và tại gia, như 184 loại yết ma hoặc 10 giới nặng 48 giới nhẹ của năm chúng xuất gia, 5 giới và 8 giới của cư sĩGiới pháp là lộ tuyến giúp cho chúng sanh giải thoát. Người tu hành dựa vào giới pháp mà được nhập thiền địnhđạt được trí tuệ.

Giới thể là một phương thức biểu đạt rất trọng yếu trong giới học. Theo Lão hòa thượng Hư Vân, “Giới thể là lúc thọ giớilĩnh nạp giới pháp trong đầu óc, trong thân thể sinh ra một loại giới thể. Thể này tuy phàm phu không thể nghe, thấy nhưng thường hằng liên tục trong suốt đời, có công năng phòng phi chỉ ác, gọi là giới thể. Tốt hay xấu của giới thể, nằm ở lúc phát tâm thọ giới cao hay thấp. Nên người cầu giới, khi đầu phát tâm minh bạchphát tâm tam phẩmhạ phẩm tâm, trung phẩm tâm, thượng phẩm tâm”. Trong Chi uyển di biên (芝苑遗编) của luật sư Nguyên Chiếu thời Bắc Tống, giải thích: “Giới thể là cương yếu của luật học, căn bản bản của đặc phạm, nguyên thủy của phản lưu, tiền đạo của phát hạnh”.  Đạo Tuyên sáng lập lý luận giới học, luận thuật giới thể một cách hoàn chỉnh, còn chia tướng trạng giới thể thành bốn phương diện. Một là giới thể tướng trạng, hai là thọ tùy đồng dị, ba là duyên cảnh khoáng hiệp, bốn là phát giới số lượng. Cho rằng, hàng xuất gia gieo trồng ruộng phước đức là do từ sự quyết định của giới thể. “Trồng ruộng phước đức đó là tuân thủ giới luậthiện hình tướng tăng nhân, có thể khiến cho tâm linh được thuần khiếtđạo đức thăng tiến, sinh ra hoạt dụng hạt giống thiện”. Trong Tứ phần luật tỉ-khưu giới tướng biểu ký (四分律比丘戒相表记)  của luật sư Hoằng Nhất, dùng hình thức biểu cách để biểu bày “Học thuyết giới thể vô tướng của Nam sơn Luật tông”. Giới thể còn chia ra hai loại: Tác giới thể, vô tác giới thể. Tác giới thể, là lúc đăng đàn khẩn cầu thọ giới, quỳ xuống, lập chí, phát ra lời để xin giới. Vô tác giới thể là từ sự huân tập mà thành một loại nghiệp dụngnghiệp dụng viên thành cũng là chủng tửChủng tử phát sinh lực dụng, khiến vọng niệm dứt bặt.

Giới hạnh là lúc đắc giới thể rồi, đem ứng dụng hằng ngày, hoạt dụng chao động hay tĩnh lặng, nhậm vận ngăn ác, tu trì thiện. Giới hạnh là “Y trì giới thể mà sản sinh hoạt động và quá trình phòng phi chỉ ác, thuộc về phạm trù tu hành”. Thời kỳ Hiếu Văn đế triều Bắc Ngụy, luật sư Pháp Thông tại Ngũ đài sơn Bắc tự, vốn học tập Tăng kỳ luật, nhân đó phát hiện sự mâu thuẫn giữa giới thể và giới hạnh, rồi chuyển dịch chuyên nghiên cứu Tứ phần luật, sau đó cực lực hoằng dương giới tướng trong Tứ phần luật. Nhưng lúc đó chỉ giới hạn ở khẩu truyền, chưa trước tác văn bản để lưu truyềnPháp Thông khẩu truyền cương yếu Tứ phần luật, từ đó mà có nghiên cứu về “thọ tùy tướng kế giới luật” (受随相契戒律).

Giới tướng là đức Phật chế định các giới điều, trong mỗi giới có chia ra đặc phạm và bất phạm, có khai giá nhẹ và nặng khác nhau. Có chia ra chỉ trì và tác trìchỉ phạm và tác phạm. Theo Luật tônggiới tướng có hai hàm nghĩa. Một là chỉ cho tướng trạng của giới điều hiện bày ra, “Lấy giới bản làm tướng”, các tướng trạng khác nhau như năm giớimười giới v.v… Hai là giới tướng trong “lập giới tứ khoa”, người tu hành tuân thủ giới điều mà hiện bày cốt cáchtinh thần và hành vi.

Tăng sử truyện có ghi tình tiết câu chuyện kỳ bí giữa Đạo Tuyên và đại pháp sư Khuy Cơ.

Thế nhân có câu “Người có giới đức, sẽ cảm động đến chư thiênthiên thần và quỷ thần đều tôn kinh”. Đạo Tuyên ẩn tu trên núi Chung Nam, đạo hạnh cao khiết, khiến cảm động đến các thiên thần cúng dường mỗi ngày. Ngài ngày ăn một bữa vào trung ngọ, quá ngọ không ăn, và có tì-sa môn thiên vương tử dâng một bát cơm để ngài thọ thực. Có một ngày nọ, Khuy Cơ lên núi này, luôn dịp lạy hỏi ngài, ngài rất hoan hỷ. Ngài cho rằng Khuy Cơ là người học vấn tốt, giảng giải kinh luận lưu loát, nhưng giới luật hời hợt, cho nên muốn chư thiên cúng dường cơm cho Khuy Cơ để cảm hóa. Nhưng ngài chờ đến quá ngọ cũng chẳng thấy chư thiên đến cúng dườngcảm giác bụng đói, còn Khuy Cơ thì cứ mặc nhiên tự tại. Thế là hai người uống trà đàm luận giáo pháp Phật, đến xế chiều, ngài mời Khuy Cơ ngủ lại một đêm bởi ngài muốn Khuy Cơ hưởng thụ chút lạc thú của khổ hạnhKhuy Cơ đồng ý ngủ lại. Đêm đến, ngài ngồi thiền suốt đêm, chẳng chao động, lưng chẳng tựa dường, còn Khuy Cơ thì ngủ say ngáy khò khò, khiến trong tâm ngài dấy khởi xem thường. Theo oai nghi của người xuất gia, đi, đứng, nằm, ngồi đều có quy cách, đi như gió, đứng như rặng bách tùng, ngồi như chuông, nằm như cây cung. Đến ngày thứ hai, ngài qưở trách Khuy Cơ ngủ mất oai nghi, chẳng tuân thủ quy cách, làm ngài động tâm. Khuy Cơ đáp, do ngài tĩnh tọa mà làm cho người khác không an giấc. Sau khi Khuy Cơ rời đi, đến trung ngọ thì có chư thiên cúng dường, ngài hỏi sao hôm qua không cúng dường? Chư thiên đáp: “Hôm qua có bồ-tát Đại thừa ở trên núi này, hộ pháp thiện thần vây quanh một cách dầy đặc, ta đến không được!”. Sau khi nghe xong, ngài đại sám hốihối tiếc mình thấy được nhục thân bồ-tát mà chẳng biết kính ngưỡng, trái lại trách cứ bồ-tát. Từ đó về sau, ngài nỗ lực tu hành, rồi trở thành sơ tổ Luật tông.

Luật trong Luật tông, vốn chỉ cho giới luật. Giới và luật, vào thời kỳ đức Phật có các hàm nghĩa và tác dụng. Luật ý nghĩa là điều phục, thiện trị v.v… Giới ý nghĩa là tính cáchđạo đức v.v… chuyên chỉ cho tịnh giớithiện giới. Giới là một bộ phận của luật, luật lại là điển tịch thuyên thuyết giớiGiới luật có thanh văn giới và bồ-tát giới. Về sau, từ trong giới luật còn diễn sanh ra thanh quyTăng chếTăng chế như là nội quy thiền môn. Ví dụ, nếu sa-môn phạm tội nặng thì đuổi khỏi chùa, nhẹ thì bị roi đánh; sa-di trồng trọt hoa màu trên đất, ruộng của chùa; trong chùa có thiết đặt bếp núc nấu nướng để phục vụ việc ăn uốngsư phụ viên tịch thì được tổ chức tang lễ 7 ngày; tăng sĩ được quyền tích trữ vàng bạc tài sảnPháp sư Đạo An thời kỳ Đông Tấn từng căn cứ văn bản giới luật, rồi chế định giới quy — tăng ni quy phạm, và được tăng đoàn chấp hành nghiêm túc. Đạo An còn dùng họ Thích làm họ người xuất gialần lượt được tăng ni ở Trung Thổ (bao gồm ở Việt Namáp dụng, mãi đến nay vẫn chưa thay đổi.

Thích Trung Nghĩa


VĂN HIẾN THAM KHẢO

1. Lão hòa thượng Hư VânGiới phápgiới thểgiới hạnhgiới tướng

2. Khuyết danh, Lược biện giới thể luận của Nam sơn luật

3. Lao chánh Vũ, Phật giáo giới luật học

4. Tào Sĩ Bang (1932 -, giáo sư đại học Nam Dương Singapore), Tình huống khó cả đôi đường mà luật sư Hoằng Nhất hiện tại đối diện – Giữa giới luật và Tăng chế

5. Dương Duy Trung (giáo sư đại học Nam Kinh), Phật học Trung Quốc VI, Tông phái uyên lập (4) Luật tông

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Bản thể luận Phật giáo trong kinh A Di Đà
Kinh, Phật học

Cũng vậy, Thực tướng hay bản thể tối hậu trong kinh A Di Đà chính là một chỉnh thể bao gồm cả tính không (bản thể) và tính có (hiện tượng). Hai mặt mày là cùng một thể không tách rời. Trong hệ thống tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa, bản thể luận...

Giới thiệu kinh Kim Cang
Kinh, Phật học

GIỚI THIỆU KINH KIM CANG Edward Conze Dịch Việt: Nhuận Châu từ Vajracchedikā Prajñāpāramitā do Edward Conze biên tập và phiên dịch Vấn đề văn bản Bản kinh được in trong ấn bản nầy chủ yếu là của Max Müller.[1] Tôi có ghi thêm phần phân bổ trang của ông trong dấu ngoặc vuông,[2] để người đọc có...

Hạnh Phúc Bởi “Không”
Luận, Phật học

Trong dòng chảy hối hả của cuộc đời, hầu như ai cũng từng tin rằng hạnh phúc là phải “có thật nhiều”, mà quên mất rằng chính cái “Có” ấy lại là ngọn nguồn của muộn phiền. Chúng ta mặc định rằng, hạnh phúc là khi mình “Có”: có một căn nhà khang trang, có chiếc xe sang trọng, có thật nhiều tiền bạc,...

Khái niệm Phật độ qua kinh điển
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP Ngược dòng lịch sử Phật giáo Ấn Độ, có lần Đức Phật được hai anh em xuất thân trong dòng Bà-la-môn tên là Yameru và Tekula vì ngưỡng mộ giáo lý của Phật họ đã xuất gia làm Tỳ kheo. Họ cho rằng truyền bá giáo lý vi diệu thù thắng của Phật...

An Cư Kiết Hạ Theo “Tứ Phần Luật”
Luật, Phật học

An cư là chế định quan trọng trong đời sống tu tập của Tăng đoàn Phật giáo, giúp tăng sĩ ổn định tinh thần và thân thể để chuyên tâm tu học. Trong Tứ phần luật và các bộ luật Phật giáo nguyên thủy, an cư thể hiện sự quy củ, thanh tịnh của tăng...

Giới luật cư sĩ trong kinh điển Pali
Luật, Phật học

Giới luật dành cho người cư sĩ trong kinh điển Pāli, đặc biệt được làm rõ trong kinh Sigālovāda và được soi sáng bởi các nguyên lý như trung đạo, tâm từ, nghiệp và tinh tấn, không chỉ đơn thuần là những quy tắc đạo đức khô khan. Tóm tắt: Bài viết này khảo sát nền...

Sáu điểm tương đồng và hai điểm khác biệt trong ba bộ Kinh Tịnh Độ
Kinh, Phật học

Ba bộ Kinh Tịnh Độ là những bản kinh nền tảng của Tịnh Độ tông, một pháp môn Phật giáo quan trọng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, với mục đích duy nhất là dẫn dắt chúng sinh phát nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà...

Từ tín ngưỡng đến bất hoại tín
Kinh, Phật học

Trong xã hội công nghệ hiện đại ngày nay, trước làn sóng thông tin đa chiều, với vô số tin tức, hình ảnh báo chí thật hư lẫn lộn, nhiều kẻ lừa đảo, mượn đạo tạo đời, tự đánh bóng mình bằng các chiêu trò lừa bịp tinh vi, nhắm vào tâm lí ủy mị,...

Vay Trả Trả Vay (Tâm Lý Học Siêu Hình Của Phật Giáo)
Luận, Phật học

“Vay trả, trả vay” là công năng, hoạt dụng và địa vị của thức (năng-hoạt-vị thức) biến chuyển khiến vòng saṃsāra (luân hồi) luôn tiếp diễn. Có lẽ chúng ta chẳng ngỡ ngàng gì với nghi vấn: “Sau khi chết là hết?” hay “sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?”, mà nó đã quá xa xưa và cổ hủ đối với người phương Đông nói chung...

Phương pháp quán chiếu duyên khởi
Luận, Phật học

Đối với pháp Mười hai duyên khởi, Kinh và Luận dạy ta thực hành hai pháp quán. Một là lưu chuyển và hai là hoàn diệt. Quán chiếu lưu chuyển Thực tập phương pháp quán chiếu này là để thấy rõ nguyên lý duyên khởi: “Cái này sinh, thì cái kia sinh”. Nghĩa là “vô...

Kinh Quán Niệm Hơi Thở | Thích Nhất Hạnh dịch
Kinh, Phật học, Sách PDF

KINH QUÁN NIỆM HƠI THỞ Thích Nhất Hạnh dịch Tôi nghe như sau: Hồi đó, Bụt còn ở tại nước Xá Vệ, cư trú trong vườn Kỳ Thọ với nhiều vị đại đệ tử nổi tiếng như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Thi La, A Nậu Lâu Đà, Ưu Bà Đa, A Nan Đà, v.v… Trong cọng đồng các vị khất sĩ, những vị trưởng thượng lo...

Nhập Trung Quán Luận
Luận, Phật học

NHẬP TRUNG QUÁN LUẬN Nguyệt Xứng (Candrakīrti, 560-640) TÀI LIỆU GIÁO KHOA TU HỌC Huynh Trưởng bậc Lực Gia Đình Phật Tử Việt Nam THÍCH NHUẬN CHÂU biên dịch LỜI DẪN Nhập Trung quán, là đi vào tinh thần Trung đạo, siêu việt các cực đoan có, không, như trong bài kệ Bát bất của...

Luận Thích Du Già Sư Địa
Luận, Phật học

Luận Thích Du Già Sư Địa Tối Thắng Tử Đẳng tạo, Đường Huyền Tráng dịch Bản Việt dịch của Thích Tâm Châu Kính lễ Thiên Nhân Ðại-Giác-Tôn,[4] Phúc-đức, trí-tuệ đều viên mãn. Vô thượng, văn-nghĩa pháp chân-diệu, Thụ học, chính tri Thánh Hiền chúng. Ðỉnh lễ Vô Thắng Ðại Từ-thị, Mong các hữu tình chung lợi...

Luận ngũ uẩn
Luận, Phật học

Luận ngũ uẩn Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) – Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng – Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh Đức Thế Tôn nói về Ngũ uẩn: Sắc uẩn; Thọ uẩn; Tưởng uẩn; Hành uẩn; Thức uẩn. Sắc uẩn là gì? Là bốn đại chủng 1 và những...

Đức Phổ Hiền Bồ-tát với pháp môn Tịnh độ
Phật học

Khi nhắc đến Tịnh Độ, chúng ta đều nghĩ tới hình ảnh Tây phương Tam Thánh, đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, và Bồ-tát Đại Thế Chí. Ba vị thánh này ở cõi nước Cực Lạc phương Tây, trong đó đức Phật A-di-đà là vị giáo chủ, còn đức Quán Âm và Thế Chí...

Nghi Thức Truyền Giới Cho Thập Thiện Và Bồ Tát Tại Gia
Luật, Phật học

TỰA Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trì và hoằng dương chánh pháp, song song với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Sở dĩ được như thế, là do tinh thần cùng học cùng tu hòa hợp như nước với sữa. Tinh thần ấy càng được củng cố và phát triển thì giáo...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.