Tóm tắt

Khi đề cập đến sự tín ngưỡng tâm linh của người Việt thì không thể không nói đến Phật giáo. Phật giáo du nhập vào Việt Nam vòa khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên, tư tưởng từ bi, vị tha của đạo Phật nhanh chóng được cư dân bản địa tiếp thu và trở thành tâm thức của người Việt, đa phần người Việt điều tôn sùng Phật giáo, đặc biệt là vào thời Lý (1009-1225)… Đây là thời kỳ “hoàng kim” trong quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Bài viết phân tích về vai trò của Phật giáo thời Lý trong các lĩnh vực chính trị, tôn giáo và đoàn kết chống ngoại bang.

Từ khóa: Phật giáo, thời Lý, chính trị, tôn giáo, đoàn kết chống ngoại bang.

Mở đầu

Phật giáo là một trào lưu tư tưởng tôn giáo triết học lớn xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, ở biên giới Nepal – Ấn Độ, do Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa sáng lập. Sau đó Phật giáo du nhập trực tiếp từ Ấn Độ đến Việt Nam vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên một cách hòa bình. Trong giai đoạn du nhập, Phật giáo Việt Nam đã bước đầu tự hình thành nên tư tưởng thiền định đầu tiên.

Cùng với sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó, các thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi mang màu sắc Ấn Độ vào nước ta vào năm 580[1] và Vô thiền phái Ngôn Thông mang màu sắc Trung Hoa vào nước ta vào năm 820[2] đã phát triển mạnh mẽ. Sau khi đất nước thoát khỏi 1000 năm Bắc thuộc vào đầu thế kỷ thứ X sau Công Nguyên, Phật giáo gần như chiếm vị trí độc tôn ở các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê và có lúc được coi như là một quốc giáo. Chính những cái này đã làm cho Phật giáo phát triển mạnh mẽ hơn ở vào thời  Lý và giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, tôn giáo và đoàn kết chống ngoại bang.

Về chính trị

Vào thời nhà Lý, Phật giáo đã nhanh chóng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình đường lối trị nước. Ngay điểm khởi đầu, tức là việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trò quyết định nhiều nhà sư đã tham gia vào việc triều chính.

Tuy đã giúp nhà Tiền Lê, nhưng trước tình trạng tệ lậu của quốc gia dưới sự cai trị của vua Lê Long Đĩnh (Lê Ngoạ Triều) vì vị vua này ăn chơi trác táng, hoang dâm vô độ, suốt ngày chỉ lo hưởng những dục lạc trong cung mà không lo đến đời sống dân chúng, cho nên khi vua Lê Ngoạ Triều qua đời, thiền sư Vạn Hạnh đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) lên ngôi. Thiền sư Vạn Hạnh – Ngài vì dân vì nước, muốn cứu nước khỏi lâm nguy nên đã làm một cuộc đảo chính năm 1009, phế Lê lập Lý mở ra một trang sử mới cho triều đại nhà Lý.

Thiền Sư Vạn Hạnh - thời Lý
Thiền Sư Vạn Hạnh

Hoàng Xuân Hãn đã từng nhận xét, triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị 216 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh – Tiền Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta”[3].

Với việc Lý Công Uẩn xuất thân là một môn sinh của nhà chùa, được sự giáo dục của Thiền Sư Vạn Hạnh và vai trò của thiền sư Vạn Hạnh, sẽ không ngoa khi nói rằng bước đầu dựng lên nhà Lý công đầu thuộc về Phật giáo. Thiền sư Vạn Hạnh cũng là người được tin rằng đã thuyết phục Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội) năm 1010 với ý nguyện bảo vệ lâu dài nền độc lập dân tộc.

Dưới thời Lý, một loạt nhà sư được ban hiệu Quốc sư như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ, Thảo Đường. Vai trò chủ yếu của các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý đạo Phật, ngoài ra khi cần, các Quốc sư còn cố vấn cho vua những vấn đề về chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa… Vua và thái hậu thường mời các vị sư có tiếng vào trụ trì trong thành nội để giảng kinh như Viên Chiếu, Mãn Giác, Huệ Sinh, Chân Không, Giác Hải, Thông Biện, Không Lộ… Không chỉ giảng đạo, họ còn có khả năng chữa bệnh như Không Lộ, Đạo Tuệ, Nguyệt Học… Họ được vua, hoàng tộc và các quan văn võ xem trọng như bậc thầy[4].

Các tăng sư Phật giáo cũng trực tiếp tham dự chính sự qua việc trực tiếp thiết lập các kế hoạch, thảo văn thư, tiếp sứ thần, bàn luận cả những vấn đề về quân sự. Tuy can dự vào chính sự nhưng tăng sư Phật giáo không hề chủ trương tham gia chính quyền, nên sau đó, khi triều đình đã vững mạnh hơn, có thể tự mình gánh vác tất cả, thì họ lại tự nhiên lui về với chức năng vốn có của mình, là hướng dẫn tinh thần và đạo đức, lui về với việc tu đạo của mình khi nhiệm vụ đối với quốc gia, với quảng đại quần chúng đã hoàn thành[5].

Tượng đài Vua Ký Thái Tổ
Tượng đài Vua Ký Thái Tổ

Lực lượng Phật giáo rất lớn, càng về sau càng phát triển, Phật giáo đã đông người lại có ruộng đất riêng.

Ngay khi mới lên ngôi, vua Lý Thái Tổ độ cho hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng[6]. Sự hưng thịnh của Phật giáo thời Lý biểu hiện rõ nhất ở tổ chức tăng đoàn. Không chỉ có số lượng Phật tử đông đảo (hầu như trên cả nước từ vua, quan đến dân đều theo Phật giáo) mà tăng đoàn còn có nguồn ruộng đất và tài sản riêng rất lớn. Do sự phát triển của Phật giáo nên các chùa thời này đều có cơ sở vật chất rất lớn, bao gồm rất nhiều ruộng đất và tài sản. Một điều đáng quý là nguồn tài sản của các chùa hầu hết dùng để cứu cấp dân nghèo vào những năm mất mùa.

Luật pháp thời Lý thuần hậu hơn so với trước

Các vua Đinh – Tiền Lê ưa dùng hình phạt nặng, cực hình tàn nhẫn, sang thời Lý các vua dùng pháp luật khoan dung hơn. Ví dụ như vua Lý Thái Tông tha những người em từng có ý định tranh ngôi và thủ lĩnh người Tày Nùng Trí Cao, vua Lý Thánh Tông tha vua Chiêm Thành là Chế Củ và quan tâm cả tới tù nhân bị đói rét… Những việc làm đó không bị xem là sự giả dối về chính trị mà được coi là biểu hiện của lòng từ bi do ảnh hưởng từ Phật giáo[7].

So sánh ảnh hưởng của Phật giáo tới chính trị thời Lý với các thời kỳ mới giành lại độc lập như Ngô – Đinh – Tiền Lê, Hoàng Xuân Hãn cho rằng có sự khác biệt. Trước thời Lý, các vua xuất thân đều từ võ biền, ít kiến thức nên phải nhờ nhiều vào vai trò của các nhà sư trong mưu lược chính trị, điển hình như thiền sư Khuông Việt nhà Đinh hay thiền sư Vạn Hạnh nhà Tiền Lê. Sang thời Lý, các vua có học vấn cao hơn và triều thần cũng có nhiều người uyên bác hơn[8].

Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt

Về tôn giáo

Phật giáo trở thành quốc giáo.

Sau khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ hết lòng sùng kính Phật giáo. Năm Thuận Thiên thứ 15 (1024) nhà vua Lý Thái Tổ tổ chức giảng dạy Phật pháp ngay trong nội thành để tiện việc cho dân chúng lui tới nghe pháp và vua đã thỉnh Thiền Sư Vạn Hạnh làm Quốc sư, suy tôn Phật giáo là quốc giáo. Cũng trong giai đoạn này các Thiền Sư thuộc hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi mang màu sắc Ấn Độ và Vô Ngôn Thông mang màu sắc Trung Hoa đã thực sự dấn thân vào các lĩnh vực như kinh tế, chính trị… đế góp phần xây dựng đất nước ngày một phát triển[9].

Thiền phái Thảo Đường đã ra đời.

Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc, thì trong số những tù nhân bắt được trong chiến cuộc ấy, có một thiền sư Thảo Đường người Trung Hoa, nhưng chẳng ai biết đó là thiền sư. Qua trao đổi, vua Lý Thánh Tông thấy thiền sư Thảo Đường là người “có đức hạnh, lại tinh thông Phật điển, bèn bái làm thầy” và phong làm Quốc sư (1069), mời đến trụ trì tại chùa Khai Quốc (chùa Trấn Quốc ngày nay) tại kinh thành Thăng Long[10].

Bởi thiền học của Quốc sư có những nét mới lạ so với hai thiền phái đương thời là Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông, nên một thiền phái nữa được thành lập, lấy tên là thiền phái Thảo Đường. Theo tài liệu thì thiền sư Thảo Đường là đệ tử của thiền sư Trùng Hiển (980-1052, thuộc về thế hệ thứ 4 của thiền phái Vân Môn, sau được vua Tống ban hiệu là Minh Giác đại sư) ở núi Tuyết Đậu (Chiết Giang, Trung Quốc). Mà Vân Môn và Tuyết Đậu (hiệu Minh Giác đại sư) đều là thiền sư bác học và có khuynh hướng văn học[11]. Thiền phái Thảo Đường do thiền sư Thảo Đường sáng lập truyền thừa được 5 đời, từ năm 1069 – 1205, vua Lý Thánh Tông là đệ tử đầu tiên của thiền phái Thảo Đường[12].

Do du nhập vào Đại Việt qua những con đường khác nhau và do sự tiếp nhận của nhân dân đương thời, Phật giáo không có một dòng duy nhất.

Có dòng hòa với tín ngưỡng dân gian cổ truyền (các chùa Pháp Vân, chùa Pháp Vũ, chùa Pháp Lôi, chùa Pháp Điện, chùa Diên Hựu – Một Cột…), có dòng thiên về Mật Tông (với những nhà sư giỏi về pháp thuật và chữa bệnh), có dòng thoát tục, có dòng tu tại gia lấy “cái tâm” làm gốc… Trong trào lưu đó, giai cấp thống trị mong muốn tìm ra một tôn giáo làm nền cho sinh hoạt tinh thần và tâm tính người Việt, thoát khỏi hệ tư tưởng Nho giáo của phương Bắc. Dần dần hình thành sự hòa hợp giữa Phật giáo và Nho giáo[13].

Từ thời vua Lý Thần Tông (1128-1138), các vua thường qua đời sớm, vua lên thay còn nhỏ, thái hậu buông rèm nhiếp chính. Sự sùng bái Phật giáo từ lúc này bị xem là trở thành mối dị đoan, bắt nhịp với đạo Giáo và tín ngưỡng cổ truyền[14]. Tuy những mối dị đoan không làm ảnh hưởng tới chính trị, nhưng đủ làm bằng chứng về nhân tâm rối loạn, nhà chức trách bỏ phí thời gian vào việc hão huyền, việc thưởng phạt trong triều đình căn cứ vào những điều không chính đáng[15].

Về đoàn kết chống ngoại bang

Phật giáo có vai trò quan trọng trong việc tăng cường khối đoàn kết toàn dân chống ngoại bang.

Trong suốt chiều dài lịch sử, tinh thần độc lập tự chủ hình thành gắn liền với truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam; là ngọn đuốc soi đường giúp người dân nước Việt vượt qua mọi khó khăn, tăng cường khối đoàn kết toàn dân chống ngoại bang. Ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta đã đem theo tư tưởng bình đẳng và từ bi rất thích hợp với khối đại đoàn kết toàn dân.

Theo Sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Năm 1038, vua Lý Thái Tông ngự ra bố hải khẩu (Thái Bình) cày ruộng tịch điền. Vua Lý Thái Tông sai hữu ti quét đất lập đàn, thân tế thần nông, sau đó cầm cày toan làm lễ cày ruộng. Tả hữu can rằng, đó là việc của bọn nông phu, bệ hạ làm việc ấy làm gì? Vua Lý Thái Tông nói: “trẫm không tự cày thì lấy xôi đâu mà tế, lại lấy gì nêu gương cho thiên hạ. Vua đẩy cày ba lần rồi ngừng. Nhà vua tự thân cày tịch điền đầu năm, là để làm kiểu mẫu cho dân của nhà Lý”[16].

Chính tinh thần dân chủ và tinh thần đoàn kết toàn dân do ảnh hưởng hệ tư tưởng Phật giáo đã giúp Đại Việt giành được kỳ tích trong trang sử hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc. Đó là sự kiện Lý Thường Kiệt đập tan cuộc xâm lược quy mô lớn của hàng chục vạn quân Tống vào năm 1076-1077[17].

Một số đánh giá

Có thể thấy, sự tham gia của các nhà sư vào công việc triều chính rất tích cực và hiệu quả. Các nhà sư đã đóng góp những ý kiến xác đáng và quan trọng trong chính trị, quân sự và các việc khác của triều đình. Tuy nhiên, sự tham gia này đã có những hạn chế. Họ chỉ đưa ra rất nhiều tư tưởng củng cố nhà nước phong kiến. Vì thực hành Phật giáo, nhà sư không thể đảm nhận các chức vụ trong triều đình cũng như trong vùng; họ đã không phải là những người chỉ huy quân đội của nhà Lý dù họ là những người có tài.

Nếu như các nhà sư được bổ nhiệm làm Tăng thống hoặc Tăng lục họ chỉ là quan chức quản lý tăng ni Phật tử, tín đồ và mọi hoạt động của chùa. Khi các nhà sư thảo luận và đưa ra quan điểm của mình về chính trị, họ không sử dụng giáo lý và nguyên tắc Phật giáo trong kinh điển Phật giáo, nhưng họ đã sử dụng các nguyên tắc và quan niệm của học thuyết Nho giáo. Ví dụ như khi khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi, thiền sư Vạn Hạnh đã sử dụng quan niệm Nho giáo về nhân và thứ. Khi bàn về nguồn gốc hưng thịnh và suy tàn của đất nước, thiền sư Niên Thông đã dùng quan niệm về người đáng kính và kẻ tiểu nhân; những quan niệm này đã được Khổng Tử và Mạnh Tử sử dụng.

Dưới Triều Lý, Phật giáo đã nhanh chóng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình đường lối trị nước. Phật giáo đã ngày càng phát triển và trở thành quốc giáo. Phật giáo có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, tôn giáo và đoàn kết chống ngoại bang. Tinh thần đoàn kết chống ngoại bang tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, mà Phật giáo là chất keo gắn kết các thành phần tộc người và tôn giáo khác nhau tạo thành một xã hội đa tộc người và đa tôn giáo, nhưng đoàn kết vững mạnh.

Sự hiện diện của Phật giáo trong bộ máy chính quyền thời Lý là tinh thần nhập thế trách nhiệm của tôn giáo này đối với vận mệnh dân tộc. Các vị vua, quan và dân thời Lý hầu hết là những Phật tử thuần thành đều đến chùa quy y, tụng kinh sống một đời sống có giới luật cho nên nhân dân thời đại này được coi là thời đại thái bình nhất. Tất cả đều thể hiện được tinh thần bình đẳng, tương thân tương ái[18].

Kết luận

Có thể nói, Phật giáo thời Lý đã làm nên một trang sử vẻ vang, huy hoàng trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Phật giáo thời này có sức sống mãnh liệt bằng tinh thần vô ngã vị tha; thể hiện sức sống tự lực tự cường với tinh thần độc lập dân tộc. Vai trò của Phật giáo thời Lý trong các lĩnh vực chính trị, tôn giáo và đoàn kết chống ngoại bang rất quan trọng.

Sự phát triển của Phật giáo vào thời Lý với tinh thần nhập thế thể hiện ở những mức độ khác nhau, không hề đứng trên tư tưởng thống trị, quyền lực và quyền lợi, Phật giáo đã thực thi một tinh thần khoan dung, bình đẳng. Người Việt không kể xuất gia hay tại gia, từ vua quan đến thường dân đã cùng nhau đoàn kết chống ngoại bang bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc… góp phần tạo nên bản sắc chính trị của dân tộc ta trong thời kỳ nhà Lý.

Tác giả: ThS. Nguyễn Đắc Tùng

Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Nam Á và Châu Phi, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Link bài viết gốc:https://tapchinghiencuuphathoc.vn/vai-tro-cua-phat-giao-thoi-ly-trong-linh-vuc-chinh-tri-ton-giao-va-doan-ket-chong-ngoai-bang.html


Tài liệu tham khảo

Hoàng Xuân Hãn (1997), Lý Thường Kiệt, Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn Hành, tr. 29.
Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 418-423.
Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tập II, tr. 597-599.
Lê Tuấn Huy (2010), Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta và ảnh hưởng của nó trong các thế kỷ 10 -14, https://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/4667-su-du-nhap-cua-phat-giao-vao-nuoc-ta-va-anh-huong-cua-no-trong-cac-the-ky-10-14.html, ngày truy cập 5/8/2024.
Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển III, Bản in Nội Các Quan Bản Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tr. 110-111.
Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nhà xuất bản Tôn giáo, tr. 134.
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nhà xuất bản Văn học, tr. 91-122.
Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 259.
Thích Nữ Hạnh Thuận (2018), Cái đẹp của Phật giáo trong thời Lý Trần, https://nigioikhatsi.net/luan-van/cai-dep-cua-phat-giao-trong-thoi-ly-tran.html, ngày truy cập 15/8/2024.
Thích Minh Tuệ (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 202-205.

Chú thích

[1] Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nhà xuất bản Văn học, tr. 91.

[2] Nguyễn Lang Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nhà xuất bản Văn học, tr. 122.

[3] Hoàng Xuân Hãn (1997), Lý Thường Kiệt, Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn Hành, tr. 29.

[4] Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 418-419.

[5] Lê Tuấn Huy (2010), Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta và ảnh hưởng của nó trong các thế kỷ 10 -14, https://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/4667-su-du-nhap-cua-phat-giao-vao-nuoc-ta-va-anh-huong-cua-no-trong-cac-the-ky-10-14.html, ngày truy cập 5/8/2024.

[6] Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tập II, tr. 597-599.

[7] Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 423.

[8] Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 418.

[9] Thích Nữ Hạnh Thuận (2018), Cái đẹp của Phật giáo trong thời Lý Trần, https://nigioikhatsi.net/luan-van/cai-dep-cua-phat-giao-trong-thoi-ly-tran.html, ngày truy cập 15/8/2024.

[10] Thích Minh Tuệ (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 202.

[11] Thích Minh Tuệ (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 205.

[12] Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nhà xuất bản Tôn giáo, tr. 134.

[13] Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 259.

[14] Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 420.

[15] Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Hà Nội, tr. 421.

[16] Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 2, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, tr. 256.

[17] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư – Bản Kỷ – Quyển III, Bản in Nội Các Quan Bản Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tr. 110-111.

[18] Thích Nữ Hạnh Thuận (2018), Cái đẹp của Phật giáo trong thời Lý Trần, https://nigioikhatsi.net/luan-van/cai-dep-cua-phat-giao-trong-thoi-ly-tran.html, ngày truy cập 15/8/2024.


QUAN TÂM VÀ HỖ TRỢ
Chúng tôi cung cấp mọi tư liệu về Phật giáo một cách hoàn toàn miễn phí.
Mong nhận được sự hỗ trợ và đóng góp của bạn để Website được duy trì hoạt động.

STK: 102 867 430 455
Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank)
(Nội dung: Họ tên + ho tro website)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Biểu tượng hoa sen trong trang trí chùa ở Huế
Kiến trúc-Mỹ thuật, Nghiên cứu, Văn hóa

PHẦN MỞ ĐẦU Đã là công dân nước Việt thì dù có ở đâu đi chăng nữa mà khi nghe ai đó nhắc nhắc đến sông Hương, núi Ngự thì mỗi người con đất Việt đều nghĩ ngay đến một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, thơ mộng và hoài cổ. Nơi mảnh đất thần...

“Bản Sắc Hóa” Pháp Phục Phật Giáo Việt Nam
Nghiên cứu, Văn hóa

I. Y PHỤC LÀ BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn...

A Dục, Ashoka -Một Vị Vua Phật Tử
Lịch sử, Nghiên cứu

Hoàng đế A-dục trị vì nước Ấn vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch và cũng là một trong những nhân vật sáng chói nhất trong lịch sử Phật giáo. Là vị hoàng đế nổi tiếng nhất của triều đại Maurya ông đã thống nhất gần toàn thể bán lục địa Ấn độ. Dưới triều đại của ông, văn hóa được phát triển cao độ và cũng là lần...

Biểu tượng Phật giáo trong kiến trúc chùa Việt ở Bắc bộ
Kiến trúc-Mỹ thuật, Nghiên cứu, Văn hóa

1. Vị trí, vai trò biểu tượng Phật giáo trong kiến trúc chùa Việt ở Bắc Bộ Trong kiến trúc một ngôi chùa Việt, các biểu tượng Phật giáo được hiện diện ở khắp mọi nơi, từ các hoa văn trên từng viên gạch, viên ngói, đến trên các trang trí cửa võng, y môn,...

Góp thêm những tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật giáo
Lịch sử, Nghiên cứu

Nghiên cứu cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều chúng ta dễ dàng bắt gặp là ở chỗ Người có nhiều mối quan hệ gắn bó với Phật giáo, không chỉ ở mặt tư tưởng, tình cảm mà cả chính bằng những việc làm cụ thể. Trên bình diện...

Hôn nhân hạnh phúc trên nền tảng đạo đức Phật giáo
Nghiên cứu, Văn hóa

Việc ứng dụng giáo lý nhà Phật vào cuộc sống lứa đôi mang lại rất nhiều tích cực cho cuộc sống gia đình của các phật tử, hướng phật tử đến một cuộc hôn nhân tốt đẹp trên nền tảng đạo đức Phật giáo. A. Mở đầu Trong muôn vàn giá trị mà con người...

Sơn môn Bổ Đà-Dấu thiêng còn vang mãi
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Thời kỳ Lê Trung Hưng (Thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII) dòng thiền Lâm Tế Trung Hoa được truyền vào Việt Nam và đã vô cùng phát triển ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Ngoài những sơn môn nổi tiếng của Lâm Tế Đàng Ngoài như: chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chùa...

Hoạt động đào tạo Tăng tài trong phong trào chấn hưng PGVN giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX
Lịch sử, Nghiên cứu

Tăng sĩ không tu tập, không am hiểu giáo lý để hoằng pháp, điều này ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng tín đồ phật tử. 1. Dẫn nhập    Phật giáo du nhập vào nước ta đã trải qua hơn 2000 năm, những giá trị tâm linh Phật giáo để lại trên mảnh đất...

Ứng dụng Kinh tạng Pali về đạo đức, xây dựng mô hình kinh doanh hiệu quả và bền vững
Nghiên cứu

Sự phát triển của kinh tế hôm nay và sự bình ổn của xã hội, sự an toàn của môi trường trong tương lai không thể tách rời nhau, có mối quan hệ hỗ tương cho nhau A. Dẫn nhập Kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận, nhưng kinh doanh như thế nào để tạo...

Hành trạng và tư tưởng Phật học của Tổ sư Hoán Bích – Nguyên Thiều
Lịch sử, Nghiên cứu

Thiền sư Nguyên Thiều được biết là một vị tổ sư, cao tăng gốc Trung Hoa thuộc thế hệ thứ 33 dòng thiền Lâm Tế, đã sang Việt Nam hoằng đạo ở Đàng Trong vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1627-1789) và giúp phục hồi Phật giáo Xứ Đàng Trong.  1. Vấn đề về hành...

Chùa Diệu Ðế và hai bài thơ liên quan vừa được tìm thấy trong Cống Thảo Viên Tập của Nguyễn Phúc Miên Cư
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Trong dòng chảy lịch sử, văn hóa, văn học Việt Nam, có không ít những công trình kiến trúc từ lâu đã trở thành kinh điển, đại diện cho tinh thần và tư duy của một triều đại với những thăng trầm bi hùng. Không chỉ thế, nó còn mang xu hướng linh thiêng, là...

Mối liên hệ về chữ “Hiếu” trong Nho giáo và văn hóa Lễ Vu Lan ở Trung Quốc: từ thế tục tới tính thiêng!
Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Trung Quốc vào thời nhà Hán (202 TCN – 220 CN); kết hợp các nền văn hóa bản địa cố hữu, Phật giáo dần trở thành một tôn giáo có sức ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Phật giáo sơ truyền,...

Xu thế biến đổi trong Kiến trúc, cảnh quan chùa Huế
Kiến trúc-Mỹ thuật, Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Phật giáo Huế với một bề dày lịch sử, gắn liền với thăng trầm vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân xưa, đã hàm chứa, bảo tồn được nét riêng có trên nhiều mặt của yếu tính truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, trong chiều hướng phát triển của xã hội thì trong...

Tín ngưỡng thờ Long Vương trong Phật giáo Nam bộ
Nghiên cứu, Văn hóa

Tượng Long Vương ở Tổ đình Hội Khánh (Bình Dương). LONG VƯƠNG TRONG PHẬT GIÁO Trong Phật giáo, rồng là một trong Bát bộ chúng thủ hộ Phật pháp. Lãnh tụ của Long tộc gọi là Long Vương, có đầy đủ uy lực lớn mạnh, thường theo bảo vệ Phật. Trong các kinh sách Phật...

Vai trò nhập thế qua những biểu hiện, một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm phát huy vai trò của nữ Phật tử
Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân loại. Ở phương diện tích cực, chúng phục vụ nhiều nhu cầu, đem lại hiệu suất làm việc cao cho con người. Song ở phương diện tiêu cực, chúng khiến đời sống tinh thần đứng...

Các công chúa triều Trần với đạo Phật và chốn thiền môn
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Khi công chúa Thái Đường mắc lỗi, triều đình tịch thu điền trang của bà sung vào ruộng quốc khố. Bà bèn đi tu ở chùa Nghĩa Xá, gần Lạc Quần (Xuân Trường). Thời nhà Trần, đạo Phật được nhân dân Đại Việt rất coi trọng và tôn sùng. Các vua Trần từ Trần Thái...