Luật Phật quy định, và hiện nay áp dụng, sau khi bạch tứ Yết-ma thành tựu, tức là sau khi giới thể cụ túc đã thành tựu trên giới tử, thì truyền tứ khí cho Tỷ-kheo (hoặc bát khí cho Tỷ-kheo ni), tức là các trọng giới Ba-la-di, và truyền Tứ y (chung cho cả Tăng-Ni), tức là bốn chỗ nương tựa cho đời sống xuất gia. Theo mỗi truyền thống Luật tạng khác nhau, thì thứ tự nói về tứ khí và tứ y cũng khác nhau. Có khi thì tứ khí nói trước, có khi thì tứ y nói trước. Riêng Luật tứ phần[1] mà nước ta áp dụng thì tứ khí nói trước, tứ y nói sau.

Tứ y là gì? Là bốn căn bản cho đời sống xuất gia, mà Luật diễn tả là Tỷ-kheo y theo đây mà xuất gia, thọ giới cụ túc, thành phẩm chất Tỷ-kheo. Bao gồm:

1, Tỷ-kheo sống y trên y phấn tảo.

2, Tỷ-kheo sống y trên sự khất thực.

3, Tỷ-kheo sống y nơi gốc cây mà ngủ nghỉ.

4, Tỷ-kheo sống y nơi các loại thuốc hủ lạn dược.

Tứ y hay còn gọi là tứ thánh chủng, tức là bốn hạt giống của bậc Thánh, mà theo Phật Quang đại tự điển định nghĩa: “có công năng sanh ra chủng tử Thánh trong mỗi chúng sinh”.

Tăng đoàn nguyên thủy sống dựa trên việc khất thực, y phục, thức ăn, chỗ ở, thuốc men, đều do nơi khất thực mà có, không có việc tư hữu riêng. Khi Tăng đoàn bắt đầu hưng thịnh, các cư sĩ tại gia bắt đầu có sự phát tâm hộ trì chúng Tăng nhiều hơn, điều gì các cư sĩ xin phép mà Thế Tôn thấy hợp lý thì Ngài đồng ý bằng cách im lặng. Cho nên, trong Tứ y, có sự “khai”: Sống y trên y phấn tảo, nhưng cho phép thọ dụng y do đàn-việt cúng dường, y đã được cắt rọc hay hoại sắc. Sống y trên sự khất thực nhưng cho phép đi thọ thực nếu được Tăng sai, hay đàn-việt cung cấp các bữa ăn định kì mỗi nửa tháng, ngày mồng một, mồng tám, ngày rằm, hoặc các bữa ăn thường của Tăng, hay được đàn-việt mời. Sống y nơi gốc cây mà ngủ nghỉ, nhưng nếu được cúng một căn phòng riêng, một ngôi nhà góc nhọn, căn phòng nhỏ, một hang đá, hay hai căn phòng có chung một cửa. Sống y trên các loại thuốc hủ lạn, nhưng được thọ dụng nếu đó là tô, sanh tô, dầu, đường phèn và mật[2].

Ba loại đầu: y phục, ăn, ở, giúp điều phục với lối sống thiểu dục tri túc; Còn thuốc hủ lạn thì giúp đoạn phiền não. Tứ thánh chủng nhằm tạo sự hoan hỉ trong tu tập Thánh đạo, dẫn đến chứng Thánh quả[3]. Nguyên nhân Phật chế ra Tứ thánh chủng là nhằm mục đích để đoạn các Ác dục đối với y phục, ăn, ở, thuốc men của một vị Tỷ-kheo[4], từ đó mà các thiện hữu lậu và vô lậu phát sinh bởi lực tăng thượng do biết đủ với bất cứ điều gì trong tứ thánh chủng[5]. Như vậy, Tứ thánh chủng rất quan trọng trong đời sống một Tỷ-kheo ngay từ khi mới bắt đầu xuất gia. Chính sự quan trọng đó mà Đề-bà-đạt-đa mới căn cứ theo đây để đề ra năm pháp và dễ dàng lôi kéo những Tỷ-kheo trẻ đi theo mình hình thành Tăng đoàn mới[6]. Đề-bà-đạt-đa đã đẩy Tứ thánh chủng đến cực đoan, đánh vào tâm lý chung của các vị Tỷ-kheo hữu học, trong khi tinh thần của Phật là Trung đạo, câu hữu giải thoát.

Ngày nay, đời sống xã hội bên ngoài khác xa thời Phật nhiều, nhưng cần phải hiểu được tinh thần Tứ thánh chủng trong đời sống Tỷ-kheo, vấn đề ăn mặc ở của một Tỷ-kheo cần làm sao đó để đúng với tinh thần thiểu dục tri túc, và phù hợp với mức độ sống của xã hội, nhằm đoạn trừ phiền não, đạt cứu cánh Niết-bàn trong đời này và đời sau. Tinh thần này phải luôn được nhắc nhở để nuôi dưỡng và tăng trưởng chủng tử Thánh trong mỗi cá nhân Tỷ-kheo. Lúc thọ giới là lúc tâm tư Tỷ-kheo thanh tịnh nhất, vừa đắc giới cũng giống như bình sạch vừa chứa đựng cam lộ vậy, nên việc nhắc đến Tứ thánh chủng như là bốn căn bản của đời sống của Tỷ-kheo, nương đây mà xuất gia, mà thọ cụ túc, và đắc Thánh quả, là một điều vô cùng cần thiết.

Thế nhưng ngày nay một số giới đàn thay Tứ y này thành “bốn pháp nên làm”: “Từ đây cho đến suốt đời, bị mắng không được mắng lại; Bị giận không được giận lại; Bị người đùa giỡn, không được đùa giỡn lại; Phiền não khởi lên, phải nhiếp tâm, không chống trả lại.” Chúng ta dễ thấy bốn điều này không có liên hệ gì đến Tứ thánh chủng nói trên cả. Nói sai thì không sai, nhưng thật sự nó khác xa về ý nghĩa tu tập đoạn tận phiền não của Tứ thánh chủng. Và không biết việc thay thế bốn điều này được căn cứ từ đâu? Và khi thay thế như vậy, đã có sự so sánh đến giá trị đích thực giữa Tứ thánh chủng và bốn điều cần làm đó hay chưa?

Bất kể một điều Luật nào Phật quy định, không phải chỉ có mỗi mặt là “tùy phạm tùy chế”, mà mỗi điều sẽ bao gồm ba yếu tố: Một là, về mặt Thánh đạo, tức là triết lý giải thoát; Hai là, về mặt Tâm lý; Ba là, về mặt quan hệ xã hội. Cho nên không dễ để hiểu hết được một điều Luật nào đó. Có thể một người giỏi về các duyên khởi Phật chế giới, giỏi về mặt Xã hội học để hiểu vấn đề quan hệ của Tỷ-kheo với xã hội, hoặc giỏi về mặt Tâm lý bên trong điều Luật đó, nhưng về mặt Thánh đạo, thì không phải phàm phu nào cũng có thể hiểu hết ý của Phật.

Lý luận cho việc thay Tứ thánh chủng thành Bốn điều cần làm ở trong Giới đàn, nhiều người cho rằng, Tứ thánh chủng (Tứ y) chẳng còn phù hợp với xã hội ngày nay, Tỷ-kheo không còn mặc y phấn tảo, không còn ngủ gốc cây, không còn đi khất thực, không còn uống thuốc hủ lạn. Vì vậy mà cần thay thế vào bốn điều cần làm đó để nhắc nhở tỷ-kheo. Điều này khiến người viết liên tưởng đến việc kết tập tam tạng lần đầu tiên sau khi Phật nhập diệt được một trăm ngày, được ghi lại trong Luật: Khi A-nan nói đức Phật cho phép bỏ các điều giới nhỏ nhặt, nhưng lại không biết điều nào là nhỏ nhặt, do đó, Ngài Ca Diếp nói với các Tỷ-kheo: “Từ đây về sau, nên cùng nhau lập ước chế: ‘Nếu trước đây, những gì đức Phật không chế cấm thì nay không nên chế cấm. Trước đây những gì đức Phật chế cấm thì nay không nên hủy bỏ. Nên tùy thuận học tập những gì mà đức Phật đã quy định”[7].

Tỷ-kheo ba y, một bát, vân du khắp thiên hạ để giáo hóa, thọ nhận cúng phẩm của thế gian, như vậy thì ngay từ lúc thành tựu giới thể Tỷ-kheo, phải chăng cần được nhắc lại Tứ y để Tỷ-kheo xác định lại lý tưởng xuất gia của mình và để trưởng dưỡng Thánh chủng trong tự thân? Có những điều tưởng chừng như nhỏ, nhưng lại có thể là một vấn đề lớn. Một ngọn lửa nhỏ có thể đốt cháy cả một khu rừng, một tội lỗi nhỏ của kẻ ngu cũng có thể đọa vào nơi địa ngục[8]. Nên hay không việc thống nhất một cách thức truyền thọ giới pháp ở một đất nước có truyền thống Phật giáo như nước ta, có lẽ đó cũng là điều trăn trở của nhiều thế hệ Tăng-già ở Việt Nam vậy.

THÍCH CHƠN TRÍ

[1] Đại tạng T1428 四分律. Xem thêm: Thích Đỗng Minh (dịch) (2010). Luật Tứ phần. Thích Nguyên Chứng, & Thích Đức Thắng (hiệu đính và chú thích). Nxb Phương Đông.

[2] Thích Trí Thủ (2011). Yết ma yếu chỉ. Thích Đỗng Minh, & Thích Tuệ Sỹ (đồng biên tập). Nxb. Phương Đông. Tr. 160-161

[3] Tập dị môn túc luận quyển 6; Đại Tỳ-bà-sa luận quyển 181; Câu xá luận quyển 22.

[4] Tứ phần luật quyển 35, quyển 48.

[5] Tuệ Sỹ, & Nguyên An (dịch việt) (2020). A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận. Nxb. Hồng Đức. tr. 196-198

[6] Tứ phần luật quyển 46. Tham chiếu Ngũ phần 25 “phá Tăng pháp”; Thập tụng 36 “tạp tụng, Điều-đạt sự”.

[7] Tứ phần luật quyển 54, p. 967b24

[8] Chư pháp tập yếu kinh: “如一微細火,則能燒諸物,愚夫罪少許,亦墮於地獄”


QUAN TÂM VÀ HỖ TRỢ
Chúng tôi cung cấp mọi tư liệu về Phật giáo một cách hoàn toàn miễn phí.
Mong nhận được sự hỗ trợ và đóng góp của bạn để Website được duy trì hoạt động.

STK: 102 867 430 455
Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank)
(Nội dung: Họ tên + ho tro website)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Nhiếp phục sợ hãi
Phật học

Thông thường sống trên cuộc đời, có bốn việc mà ai cũng sợ gặp phải. Trước nhất con người hiện hữu trên cuộc đời, có cuộc sống thì thường sợ nghèo đói và kế tiếp sợ bạn bè xem thường, rồi sợ già, sợ bệnh và sợ chết, mà Đức Phật gọi bốn thứ này...

Phật tử & những bình luận trên mạng
Điểm nhìn

Không thể phủ nhận, hiện nay mạng xã hội đã và đang tác động tới mọi mặt đời sống. Trên đó, thông tin tích cực khá nhiều nhưng những phản ứng tiêu cực cũng không ít. Tăng Ni, Phật tử cũng hòa vào dòng chảy đó, có nhiều hoạt động, phản biện tích cực, giới...

Du Già Bồ Tát Giới Bổn – Di Lặc Bồ Tát Tuyên Thuyết
Luật, Phật học

Các vị Bồ tát! sau khi đã thọ lãnh giới pháp thanh tịnh của Bồ tát, phải nên tự mình thường thường chuyên tâm cẩn thận suy ngẫm: “Đây là chỗ Bồ tát nên làm, đây là chỗ Bồ tát không nên làm”. Suy ngẫm như vậy rồi, vì muốn thành tựu công hạnh Bồ tát, cần phải siêng năng tu tập, lại phải chú ý lắng nghe tạng Tố đát lãm, và tạng Ma đát...

Năm Thìn và những trận bão lụt khủng khiếp
Điểm nhìn

Rồng (con vật từ trí tưởng tượng của phương Đông) có liên quan mật thiết đến thiên tượng và thời tiết. Vì vậy, trong những năm Thìn thường có bão tố và lũ lụt kèm theo. Do đó trong dân gian có câu “Ông tha mà bà chẳng tha” là vậy. Những trận bão năm...

Báo Lao Động phản ánh chùa Phật Quang nhưng lấy hình Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM để minh họa
Điểm nhìn

Vừa qua, Báo Lao Động đã xuất bản một video Những cơ quan nào bị “xướng tên” khi để chùa của sư Thích Chân Quang xây dựng trái phép, lấn rừng?, đã lấy hình ảnh cơ sở I Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM để minh họa cho phản ánh được cho là các vi phạm...

Nhân sinh quan theo quan niệm Phật giáo
Luận, Phật học

Trước khi bắt đầu, tôi xin hướng về thành phần Phật tử trong cử tọa hôm nay để nhắc nhở một điều quan trọng, đó là thái độ cần có khi nghe giảng Phật pháp. Quí vị cần ngồi nghe với tâm nguyện thật trong sáng. Lý do chúng ta ngồi đây hôm nay, trao...

Người xuất gia lý tưởng theo kinh Trung A-hàm
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Xuất gia theo đạo Phật là một việc cao cả và không nhiều người làm được, tuy nhiên, một người đã phát bồ-đề tâm quyết chí xuất trần, nếu không gặp thuận duyên từ môi trường sống, cộng đồng Tăng lữ, hay không có vị bổn sư co khả năng hướng dẫn...

Long Thọ Và Khoa Học Lượng Tử
Luận, Phật học

Trong thế giới thường nghiệm, con người quen sống theo một thói quen lấy cá nhân làm trung tâm qui chiếu mọi nhận định, đó là một định chế đã được huân tập từ ngày con người xuất hiện. Quan niệm định chế này còn được củng cố bằng thế giới khoa học nhị nguyên chỉ thấy vũ trụ rất trật tự, gọi là quan điểm Cartesian dualism. Trong một thế giới khoa học rất cụ thể và trật tự rõ ràng như thế, thì quả thật khái niệm vô ngã và tính không bất định của giáo...

Phật thuyết kinh Bà-la-môn mất con
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP “Từ bao đời kiếp, chúng ta đã đổ nước mắt vì người thân quá nhiều: hãy để mình và người thân đừng chìm ngập trong nước mắt ấy nữa.” – đức Phật đã dạy như vậy. Vì dòng nước mắt ấy luôn chất chứa tình yêu luyến ái, chảy ra vị mặn của bi...

Tư tưởng duy tâm trong Kinh Lăng-già
Kinh, Phật học

1. DẪN NHẬP Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh Pháp Lăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923) được ghi chép như sau: Nanjō. 375: इत्यार्यसद्धर्मलङ्कावतारो नाम महायानसूत्रं सगाथकं समाप्तमिति॥ ityāryasaddharmalaṅkāvatāro nāma mahāyānasūtraṃ sagāthakaṃ samāptamiti || (Kết thúc chương chỉnh cú của bản...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Hiểu biết về Tánh không
Luận, Phật học

Việc học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng. Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ là toát yếu sơ lược. Điều vô cùng quan yếu là phải hiểu “Tánh không” có nghĩa là gì. Lại cũng quan trọng để biết Tánh không ở ngay trong tâm mình,...

Một Thời Truyền Luật
Luật, Phật học

Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy, vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ...

Tư tưởng Tam giáo nhất trí luận trong tác phẩm Lý Hoặc Luận
Luận, Phật học

Tóm tắt: Lý Hoặc Luận (理惑论) là một tác phẩm của thời kỳ đầu Phật giáo truyền vào Trung Quốc, do một học sĩ tên là Mâu Tử (Mâu Bác) trước tác. Nội dung chính là giảng giải và lý luận về Phật giáo ngoại lai, nhằm kết hợp Phật giáo với tư tưởng Nho giáo và...

Nghĩ Về Thịnh Pháp Và Mạt Pháp
Điểm nhìn

Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp? Bài này được viết để trình bày một số suy nghĩ liên hệ. Bài này được viết trong tinh thần biết ơn Phật, biết ơn Pháp, biết ơn Tăng. Tuy nêu lên vấn đề, có phải chúng ta đang ở thời mạt pháp, nhưng người viết không có bất kỳ thẩm quyền nào về...

Giảng kinh Phước Đức
Kinh, Phật học

PHẦN 1 (Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng ngày 29.12 tại chùa Cam Lộ – Xóm Hạ trong thiền đường Hội Ngàn Sao trong mùa An Cư 2009-2010) Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng...