Chùa Vĩnh Nghiêm là một đại danh lam cổ tự – chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và là trung tâm Phật giáo lớn ở miền Bắc Việt Nam từ thể kỷ XIII đến nay.

1. Giới thiệu chung

Ai Qua Yên Tử, Quỳnh Lâm,
Vĩnh Nghiêm chưa tới Thiên tâm chưa thành.”

Chùa Vĩnh Nghiêm thuộc địa bàn làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, ở vị trí đắc địa theo thế phong thủy của người xưa: “đầu gối sơn, chân đạp thủy“. Tấm bia trước Tiền Đường của chùa, soạn khắc năm 1606 có ghi rằng: “Nay ở huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Nguyên, đạo Kinh Bắc, nước Đại Việt có một khu sùng phúc rõ là đất Tam Bảo. Nơi đây trang nghiêm rực rỡ, non cao ngàn vạn nhận, trùng trùng điệp điệp vây tròn ôm lấy thành hình chiếc lọng hoa. Ở chỗ hai ba sông, sóng nước dạt dào mênh mông, quanh co uốn lượn chầu về như dải lựa bạc. Khoảng giữa là ngôi chùa cổ có một bầu trời riêng, truyền rằng đó là chùa Vĩnh Nghiêm. Thực là một danh lam đứng đầu thiên hạ“.

Chùa Vĩnh Nghiêm là một đại danh lam cổ tự – chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và là trung tâm Phật giáo lớn ở miền Bắc Việt Nam từ thể kỷ XIII đến nay. Hiện chưa xác định rõ thời gian chùa được xây dựng, chỉ biết rằng vào thời Lý ngôi chùa này đã hiện hữu, như tấm bia Công đức các đời mở mang và trùng tu chùa Vĩnh Nghiêm khắc dựng vào năm 1932 đặt ở tòa Tổ đệ nhất có đoạn viết rằng: “Dấu cũ đời Lý – Trần hãy còn rành rành“.

Có thuyết cho rằng chùa được dựng vào thời gian trị vì của vua Lý Thái Tổ (1009-1028) với tên gọi là Chùa Chúc Thánh. Từ thế kỷ XIV, khi Trần Nhân Tông xuất gia tu hành mở ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Ngài đã đổi tên chùa thành chùa Vĩnh Nghiêm, chọn làm nơi khai tràng thuyết pháp và nơi này được coi như trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt. Với vai trò quan trọng đó, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế, nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh lam cổ tự“.

Đến các triều đại sau này đều quan tâm bảo vệ, xây dựng mở rộng chùa. Bài minh trên tấm bia khắc năm 1606 ghi việc trùng tu chùa Vĩnh Nghiêm có đoạn ca tụng như sau:

Chùa Vĩnh Nghiêm tôn kính,
Nổi tiếng khắp một vùng.
Cổ, kim dầu đổi khác,
Phong cảnh vẫn là chung.
Núi ngàn trùng trải Bắc,
Sông muốn khúc triều Đông.
Tu nhien pho thang canh,
Sừng sững chốn Phạm cung.
Quy mô bày hoành tráng,
Bài trí thật kỳ công”.

Chùa Vĩnh Nghiêm có tên chữ là Vĩnh Nghiêm, hoặc Chúc Thánh Vĩnh Nghiêm tự, hai tên này được chép trong Tam tổ thực lục. Chùa còn có tên nôm là chùa La, chùa Ông La, chùa Đức La do nhân dân địa phương gọi theo tên làng La (Ông La) là thôn sở tại của chùa và gọi theo tên xã Đức La cũ vốn thuộc tổng Trí Yên, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc ngày xưa. Cũng vì vậy mà lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm còn gọi là hội La hay hội chùa La. Trước đây lễ hội được tổ chức vào ngày 19 tháng 1 Âm lịch để tưởng nhớ ngày hóa của Giác hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông; ngày nay lễ hội được tổ chức vào ngày I4 tháng 2 Âm lịch là ngày giỗ chung của các vị Tổ chùa Vĩnh Nghiêm.

Một điều lý thú liên quan đến địa danh ở đây mà ít người được rõ, giai thoại ấy gắn với vị Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Tương truyền khi xuất gia, Ngài thường qua lại vùng này thấy phong cảnh đẹp rất lấy làm ưng ý. Một hôm, trên đường đi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông gặp một đoạn nước sâu, đang tìm cách vượt qua thì có một người dân đang đánh dậm gần đó liền tới ghé vai cõng Ngài qua. Sau khi cảm ơn, Ngài hỏi tên thì người kia đáp: “Tôi là La, dân làng quen gọi là ông La“; thế rồi đó Ngài đi xem địa thế, chọn ngôi chùa ở làng của ông La làm nơi giảng pháp, đó chính địa điểm chùa Vĩnh Nghiêm sau này, và chùa còn mang tên là chùa Ông La. Vùng này có ba thôn đều mang tên La là La Thượng, La Trung, La Hạ hợp thành “nhất xã tam thôn“, xã gọi là xã Ông La; mãi đến đời vua Minh Mạng (1820-1840) triều Nguyễn thì xã Ông La mới đổi thành xã Đức La.

Đến nay, mặc dù trải qua nhiều biến động của lịch sử nhưng chùa Vĩnh Nghiêm vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ đặc sắc, đặc biệt là nhiều hiện vật quý báu phong phú, đa dạng mang giá trị về lịch sử, thẩm mĩ, khoa học, văn hóa, tiêu biểu nhất là bộ mộc bản đã được tổ chức UNESCO ghi danh là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Với người dân nơi đây, chùa Vĩnh Nghiêm là nơi linh thiêng, là một trong những Thánh tích quan trọng bậc nhất của Phật giáo Việt Nam nói chung và của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng: đây cũng được coi là chốn tổ và được các nhà nghiên cứu coi là “Bảo tàng văn hóa Phật giáo Đại thừa”. Dân gian vẫn còn lưu truyền câu ca:

Thứ nhất là chùa Đức La,
Thứ nhì chùa Bổ, thứ ba chùa Tràng“.

Toàn cảnh chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) - sưu tầm
Toàn cảnh chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) – sưu tầm

2. Tổng thể ngôi chùa

Chùa Vĩnh Nghiêm được dựng quay hướng Đông Nam trên một mặt bằng khá rộng, thoáng gần bờ sông Lục Nam. Tổng thể chùa có Hồ Bán Nguyệt phía trước, tiếp theo trên trục chính gồm nhiều hạng mục: Tam Quan, Tam Bảo, Nhà Thờ Tổ Đệ Nhất, Gác Chuông, Nhà Thờ Tổ Đệ Nhị, phía sau hai bên nhà Tổ Đệ Nhị là Nhà Mẫu và Nhà Khách.

Chạy song song và đăng đối hai bên trục chính là hai dãy hành lang: phía trước hành lang bên tay phải là Nhà Vong. Các hạng mục nằm trên trục chính kết hợp với hai dãy hành lang hai bên bởi các đoạn tường bao tạo thành một khuôn viên khép kín. Toàn bộ các hạng mục tạo nên một tổng thể kiểu “nội Công (Kép) – ngoại Quốc“.

Trên đoạn tường bao nối Tiền Đường với hành lang hai bên có mở hai ngách nhỏ để đi vào bên trong và phía sau, nằm giữa Nhà Tổ Đệ Nhị và hành lang cũng mở hai ngách nhỏ dẫn ra khu vườn phía sau. Ngoài các hạng mục chính, trong Khu nội tự còn có các công trình phụ trợ như: Nhà Sắp Lễ, Nhà Kho, Am Hóa Vàng… Phía trước, bên trái sân chùa còn có khu Tháp mộ sư, nơi chứa xá lợi của các vị sư đã trụ trì và viên tịch tại chùa. Trong tổng thể này chỉ có Tam Bảo, Nhà Thờ Tổ Đệ Nhất, Gác Chuông là còn nhiều giá trị, các hạng mục khác được tu sửa và tôn tạo trong thời gian gần đây.

Chính điện tại chùa Vĩnh Nghiêm (BẮc Giang ) - ảnh sưu tầm
Chính điện (Tam bảo) tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang ) – ảnh sưu tầm

3. Kiến trúc các hạng mục nhiều giá trị

3.1. Tam bảo

Tam Bảo có mặt bằng chữ Công gồm: Tiền Đường, Thiêu Hương, Thượng Điện. Nền bên trong Tam Bảo là nền đất nện cổ rất mát và hút ẩm tốt; Tiền Đường và Thiêu Hương có chung cốt nền, nền Thượng Điện được nâng cao hơn 0,5m.

Tiền Đường có kích thước (29,72×10,09)m, gồm năm gian, hai chái được dựng nên cơ nền cao hơn sân trước 0,47m. Gian giữa rộng 4,15m, các gian bên rộng từ 3,98m đến 4,18m, hai chái rộng 4,25m và 4,35m. Bộ khung gỗ Tiền Đường dựng trên bốn hàng chân Cột với mười hai Cột cái, mười bốn Cột quân và bốn Cột góc (có đường kính từ từ 0,35 đến 0,45m). Các Cột cái có đường kính từ 0,45 đến 0,53m, dựng cách nhau 4,12m; các Cột quân có đường kính từ 0,35m đến 0,4m, khoảng cách đến Cột cái liền kề là 2,03m. Các chân tảng đá đỡ Cột có phần đế vuông và phần đỡ chân cột có hình thớt tròn, được tạo nhô cao hơn phần đế 0,05m.

Thiêu Hương là tòa ở giữa nối mái Tiền Đường với Thượng Điện, kích thước 10,3mx8,87m, gồm hai gian, mỗi gian rộng 3,6m. Bộ khung gỗ được dựng trên bốn hàng chân Cột: hai hàng Cột cái (đường kính cột 0,48m), dựng cách nhau 4,15m, hai hàng Cột quân (đường kính từ 0,42m đến 0,45m) dựng cách Cột cái liền kề 2,03m. Đỡ Cột là các chân tảng đá kiểu cổ bồng cao 0.55m.

Thượng Điện có kích thước 14,25mx9,93m, một gian hai chái. Bộ khung kiến trúc dựng trên bốn hàng chân Cột có bốn Cột cái ở gian giữa lớn nhất, đường kính từ 0,5m đến 0,66m; các Cột quân có đường kính từ 0,36m đến 0,52m và các Cột góc có đường kính từ 0,4m đến 0,46m.

Các Vì nóc ở Tam Bảo chùa Vĩnh Nghiêm đều kết cấu kiểu Giá Chiêng – Chồng Rường – Con Nhị. Ở kiểu vì này, Câu đầu kê trên đầu Cột cái qua hai Đấu vuông thót đáy, hai đầu đỡ Hoành mái; cật Câu đầu đỡ hai Trụ trốn lớn qua hai Đấu vuông thót đáy khác, đỉnh Trụ đỡ hai Rường suốt phía trên. Hai Rường suốt phía trên ăn mộng vào đầu Trụ trốn và kê chồng lên nhau qua các đấu vuông nhỏ, hai đầu đỡ hai hai Hoành mái, giữa cật Rường suốt trên cùng đỡ Thượng lương qua Dép nóc. Đỡ cặp Hoành mái thứ ba là một Rường cụt được tạo một đầu ăn mộng xuyên qua thân Trụ, đầu kia kê lên con Rường cụt phía dưới qua Đầu vuông.

Rường cụt phía dưới được kê trên cật Câu đầu qua đấu vuông, một đầu đỡ Hoành mái, một đầu làm giả Trụ trồn đỡ con Rường cụt phía trên. Các Hoành mái ở Tam Bảo đều là Hoành tròn. Chiều cao từ nền tới Thượng lương Tiền Đường là 6,4m, tới Thượng lương Thiêu Hương là 6,3m và tới Thượng lương Thượng Điện là 5,8m. Chiều cao từ nền tới tới Câu đầu Tiền Đường là 4,8m, tới Câu đầu Thiêu Hương là 4,7m và tới Câu đầu Thượng Điện là 4,2m.

Có hai kiểu liên kết Vì nách ở Tam Bảo là kiểu Chồng Rường và kiểu bán Giá Chiêng – Chồng rường. Kiểu Chồng Rường chỉ đơn giản với ba con Rường chồng lên nhau qua các Đấu vuông, một đầu đỡ Hoành mái. Ở kiểu bán Giá Chiêng – Chồng rường, với Xà nách một đầu ăn mộng vào thân Cột cái, đầu kia kê trên đầu Cột quân qua Đấu vuông thót đáy. Trên cật Xà Nách đỡ một Trụ trốn qua Đấu vuông nhỏ; đỉnh Trụ đỡ hai Rường cánh trên cùng qua các Đấu vuông nhỏ. Rường cánh có một đầu ăn mộng vào thân Cột cái, đầu kia đỡ Hoàng mái.

Ngoài ra còn có một Rường cụt với một đầu ăn mộng vào thân Cột trốn, đầu kia kê đỡ Hoành mái và được lên một Rường cụt phía dưới qua Đấu vuông nhỏ. Rường cụt dưới cùng kê lên cật Xà nách qua Đấu vuông. Khoảng cách từ nền tới Xà nách Tiền Đường là 4,45m, tới Xà nách Thiêu Hương là 4,35m và tới Xà nách Thượng Điện là 2,85m. Ở liên kết hiên ở tòa Tam Bảo là kiểu Bẩy chéo với một đầu ăn mộng qua cột quân, đầu kia vươn ra đỡ Tàu mái. Nối các đầu Cột theo hàng dọc là hệ thống Xà dọc với các cao độ khác nhau. Chiều cao từ nền tới Xà dọc Cột cái Tiền Đường là 4,45m, tới Xà dọc Cột cái Thiêu Hương là 4,48, tới Xà dọc Cột cái Thượng Điện là 3,8m. Chiều cao từ nền tới Xà dọc cột quân Tiền Đường là 3,2m, tới Xà dọc Cột quân Thiêu Hương là 3,5m và tới Xà dọc Cột quân Thượng Điện là 2,58m.

Mặt trước cả ba gian Tiền Đường mở cửa ra vào với những bộ cửa Bức bàn; hai gian tiếp theo dùng Vách gỗ và cửa sổ, hai chái là hai bộ cửa nhỏ kiểu Bức bàn dạng hai cánh được kết hợp với Vách đố lụa. Bao che ở những phần còn lại của cả tòa Tam Bảo là tường gạch, mặt trong được trát vữa, sơn trắng; mặt ngoài để trần, miết mạch. Tường hậu Tiền Đường và tường hai bên Thiêu Hương cách hàng Cột quân liền kề sau 0,9m. Trên thân tường của mỗi tòa đều có thêm các cửa ngách thông ra ngoài. Tòa Tam Bảo có một tầng mái. Tiền Đường, Thượng Điện có bốn mặt mái, Thiêu Hương hai mặt mái, toàn bộ lợp ngói mũi hài. Bờ nóc và bờ chảy đều xây gạch hoa chanh, trên các đao mái của Tiền Đường và Thượng Điện đều có hình tượng rồng. Chính giữa bờ nóc Tiền Đường đặt một biển ngạch dạng cuốn thư, trong lòng đắp tên chùa theo lối Đại tự.

3.2. Nhà Tổ Đệ Nhất

Nhà Tổ Đệ Nhất có mặt bằng chữ Công gồm: Tiền Đường, Thiêu Hương, Thượng Điện. Cốt nền Thiêu Hương bằng nền Tiền Đường, riêng gian giữa Thiêu Hương và Thượng Điện thì nền được nâng cao hơn 0,12m; nền ở giữa bốn cột cái của Thượng Điện được nâng lên thêm một bậc 0,12m nữa. Toàn bộ nền nhà được lát gạch bát 0,3mx0,3m.

Tiền Đường có kích thước 12,6mx6,68m, gồm ba gian, hai chái được dựng trên cơ nền cao hơn sân trước 0,33m. Gian giữa rộng 2,7m, mỗi gian bên rộng 2,4m và mỗi chái rộng 2,35m. Bộ khung gỗ dựng trên bốn hàng chân Cột: hai hàng Cột cái (đường kính từ 0,32m đến 0,33m), dựng cách nhau 2,5m, hai hàng Cột quân (đường kính từ 0,26m đến 0,32m) dựng cách Cột cái liền kề 1,5m và các Cột góc có đường kính từ 0,28mđến 0,31m.

Thiêu Hương là tòa ở giữa nối mái Tiền Đường với Thượng Điện kích thước 6,95mx3,4m, gồm hai gian, với bước gian là 1,68m và 1,75m. Bộ khung gỗ dựng trên bốn hàng chân Cột: hai hàng Cột cái (đường kính từ 0,3m đến 0,32m), dựng cách nhau 2,7m, hai hàng Cột quân (đường kính từ 0,28m đến 0,31m) dựng cách Cột cái liền kề 1,4m.

Thượng Điện có kích thước 6,12mx8,45m gồm một gian hai chái. Bộ khung kiến trúc dựng trên bốn hàng chân Cột với bốn Cột cái ở gian giữa, đường kính từ 0,32m đến 0,38m; các Cột quân có đường kính từ 0,25m đến 0,29m và các Cột góc đường kính là 0,3m. Kết cấu Vì nóc ở cả ba tòa của Nhà Tổ Đệ Nhất đều dùng kiểu Vì Kèo Cọc Báng, liên kết Vì nách có hai kiểu bán Giá Chiêng – Chồng Rường và kiểu Kẻ. Các Hoành mái đều có thiết diện tròn. Ở Tiền Đường và Thiêu Hương, khoảng cách từ nền tới Câu đầu là 2,98m và tới Thượng lương là 4,28m; ở Thượng Điện, khoảng cách từ nền tới Thượng lương là 4,4m, tới Câu đầu là 3,4m.

Nối các đầu Cột theo hàng dọc ở Nhà Tổ Đệ Nhất là hệ thống Xà dọc tương tự như ơ Tam Bảo. Chiều cao từ nền tới Xà dọc Cột cái Tiền Đường là 2,98m, tới Xà dọc Cột cái Thiêu Hương và Thượng Điện là 3m. Chiều cao từ nền tới Xà dọc cột quân Tiền Đường là 2,15m, tới Xà dọc Cột quân Thiêu Hương và Thượng Điện là 2,5m.

Mặt trước và hai chái Tiền Đường được bao che bằng Vách đố lụa, những phần còn lại đều được xây tường gạch bao che, cùng chất liệu và kiểu dáng như ở tòa Tam Bảo. Cửa ra vào được mở ở mặt đứng chính Tiền Đường tại hàng cột quân trước mở ba bộ cửa đi kiểu cửa Bức bàn, bốn cánh ở gian giữa và hai gian bên, ở hai chái là Vách và cửa sổ.

Toàn bộ mái của Nhà Tổ đệ Nhất lợp ngói mũi hài, trên bờ nóc của Tiền Đường ở chính giữa cũng đặt một đại tự dạng cuốn thư, tất cả các bờ nóc và bờ chảy đều có gắn gạch hoa chanh, trên các đao mái của Tiền đường và Thượng điện đều là rồng và vân mây cách điệu.

3.3. Gác chuông

Gác Chuông có kích thước 7,5mx7,9m, một gian hai chái, hai tầng, chiều cao từ nền tới sàn tầng hai là 4,6m. Bộ khung kiến trúc dựng trên bốn hàng chân Cột với bốn Cột cái ở gian giữa đường kính từ 0,35m đến 0,38m; các Cột quân từ 0,22m đến 0,3m. Vì nóc Gác Chuông đỡ mái tầng trên có kết cấu kiểu Vì Kèo Cọc Báng, chiều cao từ nền tới Thượng lương là 7,26m, tới Câu đầu là 6,3m. Liên kết hiên ở tầng mái trên là kiểu Bẩy. Ở tầng mái dưới, các bộ Vì nách giữa Cột cái với Cột quân có kết cấu kiểu Kẻ ngồi; liên kết hiên kiếu Bẩy chéo.

Các hoành ở Gác chuông đều sử dụng hoành tròn. Nối các đầu Cột với nhau bởi hệ xà dọc, khoảng cách từ nền tới xà dọc cột quân là 2,47m. Nồi Cột cái là ba cấp xà: Xà thượng cách nền 6,08m, Xà trung cách nền 4,4m và Xà hạ cách 2,57m.

Gác Chuông có hai tầng, tầng trên bồn mặt hái, tầng dưới hai mặt mái. Mái Gác Chuông lợp ngói mũi hài. Bờ nóc, bờ chảy xây gạch hoa chanh, trát vữa; đầu đao tầng mái trên đắp rồng, vân xoắn cách điệu. Bao che hai hồi tầng một là tường gạch với kiểu xây và chất liệu tương tự như ở Tam Bảo bà Nhà Tổ Đệ Nhất, hai mặt trước sau tầng 1 để trống. Ở tầng 2, hai chái cũng được bao che bởi tường gạch có đắp nổi chữ Thọ.

4. Bài trí tượng

Chùa Vĩnh Nghiêm là một chốn tổ lớn nên ở đây bài trí khá nhiều tượng. Tuy thế trải qua nhiều năm, vừa mất vừa thêm tượng nên cũng có sự xáo trộn trong việc bài trí ở ban Tam Bảo. Điển hình ở đây có 2 pho Phật A Di Đà ở vị trí số 4 và số 7.

Tượng A Di Đà ở vị trí số 7 kết hợp với tượng Đại Thế Chí và Quan Thế Âm tạo thành bộ tượng Tây Phương Tam Thánh, tuy nhiên 2 tượng Bồ Tát 2 bên pho A Di Đà ở vị trí số 4 lại được làm theo hình mẫu Đại Thế Chí. Ở vị trí 13 còn có thêm tượng A Di Đà Tiếp dẫn đứng giữa, hai bên lại là Quán Âm Chuẩn Đề và Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Ngoài ra trên ban Tam Bảo còn thấy sự xuất hiện của 2 tượng Hộ Pháp kích cỡ nhỏ. Hai tượng Hộ Pháp cỡ lớn được đặt ở ngoài Tiền Đường. Bộ tượng Tam Thế/Tam Thân vẫn được đặt ở vị trí cao nhất trong chùa.

Ngoài tượng trên ban Tam Bảo, tượng ở dưới vẫn tuân thủ theo cách bài trí truyền thống như bộ La Hán, bộ Thập Điện Diêm Vương, Tứ Đại Thiên Vương, ban Thánh Đức Ông, ban Thánh Tăng, Giám Trai, Thổ Địa xếp thành hai bên trong chùa.

Ở Tiền Đường còn có thêm 2 động Quán Âm rất đẹp, bên trái là Quán Âm động Bổ Đà, bên phải là Quán Âm động Hương Tích. Ngoài ra, ở chùa còn thấy xuất hiện tượng Độc Cước và Tôn Ngộ Không đặt ở Nhà Tổ Đệ Nhất.

Sơ đồ bài trí tượng tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) Ảnh: Sách Di tích Quốc gia đặc biệt chàu Việt trang 278
Sơ đồ bài trí tượng tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) Ảnh: Sách Di tích Quốc gia đặc biệt chùa Việt trang 278

5. Mỹ thuật tượng

Phần lớn tượng trong chùa Vĩnh Nghiêm mang phong cách mỹ thuật của thế kỷ XVIII và XIX đan xen một vài tượng mới làm. Tuy nhiên nổi bật và giá trị hơn cả là pho tượng Phật ở giữa bộ tượng Tam Thế/Tam Thân. Đây là pho tượng có phong cách mỹ thuật thời Mạc đồng nhất từ bệ đến tượng. Đặc điểm khác biệt ở đây là tượng có tác ria mép, đây là điều hiểm thấy ở các tượng Phật của người Việt.

Hai pho tượng hai bên cùng bộ với tượng này cũng có phong cách mỹ thuật đồng nhất nhưng có thể nhận thấy khuôn mặt đã bị sửa lại ở các đời sau. Hai tượng có giá trị thẩm mỹ cao khác ở chùa là 2 động Quán Âm ở Tiền Đường, Tượng Quán Âm ngồi trong động Bổ Đà có dáng người khoan thai, tay bế đứa trẻ, hai chân đặt lên 2 bông sen, nét mặt đẹp như người mẹ hiền. Phía trên có mái chùa đua ra che chắn, trên vách động có các pháp bảo như hồ lô, sách, bát… và còn có con chim vẹt. Nhìn thế này cũng có thể gọi tên là Quán Âm Tống Tử hoặc tên dân gian là Quán Âm Thị Kính. Tượng Quán Âm ngồi trong động Hương Tích được làm cầu kỳ hơn. Ngài ngồi thụt sâu vào trong động, phía trên một quả núi với 2 tầng mây bao quanh. Ở trên của động có con rồng vươn ra để che chắn, trên vách động đặt nhiều nhân vật hơn. Ở trên cùng có tượng Tỳ Lô Giá Na. Có thể nói đây là 2 động Quán Âm đẹp có giá trị cao, một đóng góp không nhỏ vào kho tàng điêu khắc động Phật ở Việt Nam.

Tượng Quán Âm động Bổ Đà tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).
Tượng Quán Âm động Bổ Đà tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).  Ảnh: Sách Di tích Quốc gia đặc biệt chùa Việt trang 278
Tượng Độc Cước tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Ảnh sưu tầm
Tượng Độc Cước tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Ảnh sưu tầm
Tượng Tôn Ngộ Không tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Ảnh sưu tầm
Tượng Tôn Ngộ Không tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Ảnh sưu tầm

Nguồn: Sách Di tích Quốc gia đặc biệt Chùa Việt – NXB Thông tin và Truyền thông (trang 263-285)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Chùa Thập Tháp – Ngôi cổ tự hàng trăm năm nổi đất võ Bình Định
Chùa Việt

Chùa Thập Tháp hay còn gọi Thập Tháp Di Đà là ngôi chùa cổ nhất của phái Lâm Tế, dù đã trùng tu bốn lần nhưng vẫn giữ vẻ đẹp tôn giáo đơn sơ và cổ kính. Chùa Thập Tháp hay còn gọi là Thập Tháp Di Đà Tự, được xây dựng từ thế kỷ...

Chùa Từ Hiếu: Vẻ Đẹp Cổ Kính Xứ Huế
Chùa Việt

Một trong những không gian Phật giáo tâm linh với lối kiến trúc vô cùng độc đáo hiện nay tại Huế là chùa Từ Hiếu. Ngôi chùa mang sắc màu thanh bình để du khách quên đi các bộn bề thường ngày trong cuộc sống. Cùng khám phá vẻ đẹp ngôi chùa này qua nội...

Chùa Bút Tháp – Ngôi cổ tự đại danh lam chốn Kinh Bắc
Chùa Việt, Video

Chùa Bút Tháp, tên chữ là Ninh Phúc tự, một trong những danh lam cổ tự đẹp nhất ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Xây dựng từ thế kỷ 14 với diện tích khoảng 10.000m2, chùa Bút Tháp có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa với môi trường thiên nhiên và...

Chùa Keo Hành Thiện tại Nam Định
Chùa Việt

Chùa Keo thờ theo mô hình “tiền Phật – hậu Thánh”, vừa thờ Phật, vừa thờ Không Lộ Thiền sư. Mục lục bài viết1. Giới thiệu chung2. Tổng thể ngôi chùa3. Kiến trúc các hạng mục nhiều giá trị3.1. Tam bảo3.2. Nhà Tổ Đệ Nhất3.3. Gác chuông4. Bài trí tượng5. Mỹ thuật tượng1. Giới thiệu...

Vãng cảnh chùa Hang ở An Giang
Chùa Việt

Chùa Phước Điền (còn gọi là chùa Hang) tọa lạc trên triền núi Sam (TP. Châu Đốc), với kiến trúc độc đáo, cùng khung cảnh xanh mát, đây là một điểm đến ấn tượng tại thành phố vùng biên. Chùa Phước Điền gần cụm di tích chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu và miếu...

Ngôi chùa 900 tuổi đẹp nhất của Hà Nội xưa
Chùa Việt

Chùa Chiêu Thiền, hay còn gọi là chùa Láng, dù đã 900 tuổi vẫn đứng uy nghiêm giữa lòng Hà Nội với một vẻ đẹp lưu giữ nhiều thăng trầm của thời gian. Chiêu Thiền tự được xây dựng từ giữa thế kỷ XII ngay trên nền nhà Phụ mẫu của thiền sư Từ Đạo...

Ngôi chùa nghìn năm tuổi ở Hà Nam, nơi lưu giữ nhiều hiện vật quý giá
Chùa Việt

Chùa Bầu tên chữ là Thiên Bảo Tự, tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Trỗi, phường Hai Bà Trưng, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam có tuổi đời hơn 1.000 năm tuổi còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá từ triều Vĩnh Thịnh năm thứ 6. Ngôi chùa này vào năm 2007 – 2010...

Chùa Côn Sơn: Một trong ba trung tâm Thiền phái Trúc Lâm
Chùa Việt

Chùa Côn Sơn gắn với Thiền phái Trúc Lâm, cả ba vị Tổ của thiền phái đã từng tu hành và thuyết pháp ở đây. Cùng với chùa Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của Thiền phải Trúc Lâm. Mục lục bài viết1. Giới thiệu chung2....

Quần thể Di tích Đền Sóc – Chùa Non Nước
Chùa Việt

Chùa Non hay còn gọi là chùa Non Nước có tên chữ là Sóc Thiên Vương Thiền Tự. Chùa nằm trong Quần thể di tích Đền Sóc thuộc địa phận làng Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội. Chùa Non nằm trong Quần thể di tích Đền Sóc thuộc địa phận...

Chùa Phổ Quang vừa bị cháy ở Phú Thọ có kiến trúc độc đáo như thế nào?
Chùa Việt

Chùa Phổ Quang vừa bị cháy ở Phú Thọ có kiến trúc độc đáo như thế nào?

Chùa Kom Ph’lưng – Nơi lưu giữ nhục thân vị sư gần 1 thập kỷ không phân huỷ
Chùa Việt

Chùa Kom Ph’lưng ở An Giang gây chú ý với câu chuyện kỳ lạ về thi hài của một nhà sư vẫn còn nguyên vẹn sau nhiều năm an táng, khiến nhiều người kinh ngạc và suy ngẫm về hiện tượng này. Mục lục bài viết1. Giới thiệu chung2. Tổng thể ngôi chùa3. Kiến trúc...

Ngôi chùa làm từ hàng chục nghìn viên đá nguyên khối ở Sóc Trăng
Chùa Việt

Chùa có khuôn viên rộng khoảng 6.800 m2, chùa được xây bằng rất nhiều đá và có màu xám tự nhiên từ vật liệu này. Chùa Vĩnh Hưng được thành lập vào năm 1912 tọa lạc tại đường Trần Hưng Đạo (TP.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) có kiến trúc độc đáo được xây dựng hoàn...

Chiêm ngưỡng những ngôi chùa nổi tiếng với kiến trúc tuyệt đẹp tại Đà Nẵng
Chùa Việt

Đà Nẵng không chỉ thu hút du khách bởi cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn bởi những ngôi chùa mang đậm nét văn hóa và tâm linh. Các ngôi chùa ở đây không chỉ là nơi thờ tự linh thiêng mà còn là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm...

Khám phá kiến trúc độc đáo của chùa Tà Ngáo ở vùng biên An Giang
Chùa Việt

Chùa Tà Ngáo theo hệ phái Phật giáo Nam Tông, tọa lạc tại sóc Tà Ngáo, phường An Phú, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Đây là ngôi chùa có kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu, đặc trưng cho lối kiến trúc chùa tháp của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer...

Chùa Trầm, chùa Trăm Gian, nơi lưu giữ giá trị kiến trúc dân gian độc đáo
Chùa Việt

Cụm di tích chùa Trầm, chùa Trăm Gian thuộc huyện Chương Mỹ, nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km. Đây đều là những di tích có lịch sử xây dựng từ khá sớm và còn giữ được nhiều di vật có giá trị từ thời Trần, Lê, Nguyễn… Trải qua hàng trăm năm tồn...

Chùa Thiên Hưng – “Phượng Hoàng Cổ Trấn” thu nhỏ giữa lòng Bình Định
Chùa Việt

Nếu như Phượng Hoàng Cổ Trấn ở Hồ Nam (Trung Quốc) là một điểm đến nổi tiếng với vẻ đẹp cổ kính và quyến rũ, thì tại Việt Nam, chùa Thiên Hưng được ví như một phiên bản thu nhỏ của “Phượng Hoàng Cổ Trấn” nằm giữa đất võ Bình Định. Chùa Thiên Hưng tọa...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.