Có chuyện thế này. Một hôm chư Tăng đi với Đức Phật đến bên một dòng sông. Ngài Anan hỏi Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng con tu tập theo sự hướng dẫn của Thế Tôn thì khi nào chúng con sẽ đến được Niết Bàn?”. Đức Phật mới chỉ khúc cây trôi giữa dòng sông và nói: “ Nếu khúc cây kia không bị kẹt vào bờ bên này, không bị kẹt vào bờ bên kia, không tự bị mục nát từ bên trọng, không bị chìm xuống đáy, không bị ai vớt đi thì khúc cây đó sẽ ra đến biển”.

Câu chuyện này vô cùng sâu sắc. Mình cứ tưởng mình phải cố gắng chạy cho thật nhanh, mình phải cố gắng cho thật nhiều để mình tới Niết Bàn. Nhưng mà không phải. Niết Bàn là do Pháp tự đưa tới. Dòng sông chính là Pháp, mình là khúc cây trong dòng sông, mình đang được Pháp đưa đi. Mình chỉ cần đừng kẹt vào bờ bên này, bờ bên kia là chối bỏ cái này, mong muốn cái kia, kẹt vào tham và sân. Bị mục nát tức là người hoàn toàn sống buông lung, tạo nghiệp dữ. Người quá chấp trước, ôm giữ một cái gì đó không chịu buông ra thì kẹt xuống đáy. Còn người bị vớt đi chính là cái mong muốn tu tập lên các cõi trời. Phần lớn sự tu tập của mình là bị vớt đi. Vì mình cứ mong muốn đắc định này, mong muốn đắc định kia. Mong muốn cái này cái nọ, kể cả là mong muốn các thánh quả, Niết Bàn. Tất cả những cái mình gọi là đạt được đó là mình đang bị vớt đi hết.

Niết Bàn là kết quả tự nhiên của Pháp sẽ đưa mình tới. Nếu mình cố gắng đạt đến là mình bị vớt đi liền. Đây là ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bài kinh.

Một người đạt Tu đà hoàn (quả Dự lưu) được gọi là một người đã hoàn toàn “ nhập dòng”, dòng ở đây chính là dòng Pháp. Dòng Pháp trôi đi đâu là trôi đi đó. Vì dòng Pháp trôi đi nên đương nhiên sẽ ra Niết Bàn. Tất cả mọi nỗ lực tu hành của mình là đều hướng đến một tương lai. Và khi hướng đến tương lai là mình đều đang rơi vào cái không biết mà muốn, tức là rơi vào vô minh ái dục. Một bên thì vướng vào sân, một bên thì vướng vào tham, và phải mất thời gian để đạt được. Mà đã mất thời gian thì không còn đúng với tính chất của Pháp là không có thời gian. Cái đó có thật hay không thật thì vẫn không phải Pháp.

Bây giờ mình có thể ngồi thiền và đắc định, nhưng cái đắc định đó thì rồi mình bị vớt đi khỏi dòng chảy của Pháp. Nên vấn đề là phải thấy ra được dòng chảy của Pháp. Mà Pháp phải là ngay cái thực tại hiện tiền, phải là cái đang là chứ không phải là cái sẽ là hay đã là. Cái đang thực sự diễn ra thì mắt mình mới thấy, tai mình mới nghe, mũi mình mới ngửi…

Phải xác định điều này, bất kỳ pháp hành gì mà phát xuất từ lòng ham muốn đạt đến thì đều rơi vào tham sân si. Như vậy, không thể chấm dứt tham sân si và không thể tới Niết Bàn được. Và hướng tới một cái gì đó thì phải trải qua thời gian, chứ không phải là cái hiện tại thấy ngay. Trong khi Đức Phật nói: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, Quá khứ đã đoạn tận, tương lai lại chưa tới, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây, không động không rung chuyển”. Không động không rung chuyển tức là không buông lung. Hữu, tướng, tác tức là động. Tức là mình có ý muốn đạt một cái gì đó, mình phải trú vào một phương pháp nào đó là tướng và cố gắng để tạo tác. Đó là động, là rung chuyển. Sự chuyển động này tạo ra thời gian, nó không phải là cái thực hiện tại. Cái thực thì không thấy, cái muốn có thì không thấy, vậy hoàn toàn mình đang ở giữa một khoảng không, làm sao mà không động, không rung chuyển được.

Như vậy: Hữu, tướng, tác không thể nào đạt được không, vô tướng, vô tác được.

Đức Phật nói như sau: Dù Như Lai ra đời hay Như Lai không ra đời thì Pháp vẫn vậy. Như vậy là đi từ vô minh ái dục thì muôn đời vẫn trong luân hồi sinh tử.

Mình khởi đầu bằng Tham sân si, Hữu tướng tác thì làm thế nào mình tới Niết Bàn được. Mình đang đầu tư cho vô minh ái dục mà mình không biết. Mình tạo ra một cái bản ngã, ảo tưởng về một bản ngã. Mình là gì mình cũng cho rằng tôi làm, của tôi, của ta. Khi mình còn thấy cái tôi thì không bao giờ mình thấy được Pháp. Nên tất cả các hành động của mình là hành động của bản ngã, do bản ngã tạo dựng. Vì vậy Đức Phật mới nói quá trình tu tập của Ngài là đi tìm người thợ làm nhà. Đến lúc Ngài đắc đạo quả dưới cội cây Bồ Đề, ngài mới nói Như Lai đã tìm được người thợ làm nhà, ngài bẻ gẫy hết tất cả các kèo cột mà người thợ đã làm ra. Thế nhưng cái hữu tướng tác chính là bản ngã. Vì vậy mình phải thận trọng, nếu không Pháp hành của mình rơi vào hữu tướng tác.

Có một điều vô cùng quan trọng là Pháp luôn vận hành đúng. Chỉ khi bản ngã xen vào rồi xoay theo ý mình mới làm cho Pháp theo hướng của bản ngã. Bản ngã chọn cho mình mình những pháp ưu thích để sở hữu. Trên thực tế là mình đang ưa thích, đang chọn lựa cái gì đó để sở hữu. Khi đó, mình đang làm giàu, đang tăng trưởng bản ngã mà thôi. Như vậy, phải có một pháp hành nào đó thực sự thoát khỏi bản ngã. Một pháp hành phải khởi đầu bằng vô tham vô sân vô si, một pháp hành khởi đầu bằng không, vô tướng, vô tác. Nếu không thì mình cứ loay hoay mãi trong vô minh và luân hồi sinh tử.

Có một kinh nói: khi mà những vị chư thiên đang ở trong cõi trời vô sắc giới, sắc giới, dục giới khi hết tuổi thọ ở cõi trời đó thì hi hữu thay mới được sinh lại làm người mà phần lớn bị đọa vào các cõi dữ. Tại sao vậy, khi họ đã lên tới trên đó là cao lắm rồi mà sau khi chết lại đọa vào ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh. Vậy, tất cả những gì mình nỗ lực, bản ngã tạo dựng để lên các cõi trời thì khi thân hoại mạng chung lại tái sinh vào cõi dữ. Tại vì sao? Ai biết tại vì sao? Đó là vì mình không đi đúng từ cơ bản của Pháp. Nếu mình đi đúng từ vô tham vô sân vô si thì càng đi nó càng phải buông bớt dần, bản ngã phải mất dần. Có nghĩa là mình được mở ra, bớt đi những trói buộc của bản ngã, của tham sân si thì mình càng ngày càng được tự do giải thoát mới là đúng. Nhưng ở đây, người này tham vọng. Thầy ví dụ thế này cho dễ hiểu. Có một đứa nhỏ, nó thích học toán và là một thần đồng toán, chỉ lớp 1 những đã có đậu được tiến sĩ toán học. Nhưng tất cả các môn khác thì vẫn là trình độ lớp 1. Cũng vậy cái người này ham thích thiền định, cố gắng hành thiền định mà bỏ quên tất cả mọi chuyện. Thay vì mình học tất cả Pháp để thấy ra tất cả các mặt của Pháp để không bị vướng kẹt vào đâu thì bản thân mình lại bị vướng kẹt vào Thiền định. Hơn nữa, sau khi mình đắc được thiền định thì đó là cái nhân. Cái quả của nó sẽ là sinh lên cõi trời, sau khi hưởng hết quả thì mình lại rớt xuống. Vậy thì mình lại phải học lại từ đầu thôi. Luật tự nhiên là vậy thôi, không khác được.

Thế nên sao mình lại chọn lựa mà mình không học tất cả các Pháp. Pháp là gì, là mắt tai mũi lưỡi thân ý, thọ khổ lạc xả, thấy ra Tứ Diệu Đế. Tại sao mình không ngay nơi đó để mà thấy ra Pháp. Pháp ngay nơi mỗi người, nhưng tại vì cái Phi hữu ái, hữu ái, dục ái mỗi người mỗi khác nên tạo tác tạo nghiệp ra khổ khổ, hành khổ, hoại khổ mỗi người mỗi khác. Thì dù mình làm cách gì không biết, Pháp vẫn vận hành đúng nhân quả, không thể khác được. Vậy, hoàn cảnh mình đang gặp phải chính là nghiệp của mình chứ không phải của ai khác. Vì vậy tất cả những gì đến với cuộc đời của mình đều là bài học chính xác nhất cho mình chứ không có bài học nào khác. Có thể mình nhìn ra bên ngoài để thấy nhân quả nghiệp báo của người khác như thế nào, nhưng bài học chính là bài học từ Pháp của mình và hoàn cảnh mình sống trong đó. Nói theo Bắc Tông là Chánh báo và Y Báo. Hoàn cảnh mình đang sống trong đó là Y Báo, cái đang đến với mình ở nơi mình là Chánh Báo. Đó là những cái thực, cái thực đang đến với mình. Cái thực đó là Pháp, qua cái thực đó mình mới học ra Pháp chứ không có Pháp nào khác cả.

(Trích pháp thoại Thầy Viên Minh | Trung Tâm Hộ Tông)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Du Già Bồ Tát Giới Bổn – Di Lặc Bồ Tát Tuyên Thuyết
Luật, Phật học

Các vị Bồ tát! sau khi đã thọ lãnh giới pháp thanh tịnh của Bồ tát, phải nên tự mình thường thường chuyên tâm cẩn thận suy ngẫm: “Đây là chỗ Bồ tát nên làm, đây là chỗ Bồ tát không nên làm”. Suy ngẫm như vậy rồi, vì muốn thành tựu công hạnh Bồ tát, cần phải siêng năng tu tập, lại phải chú ý lắng nghe tạng Tố đát lãm, và tạng Ma đát...

Nhân sinh quan theo quan niệm Phật giáo
Luận, Phật học

Trước khi bắt đầu, tôi xin hướng về thành phần Phật tử trong cử tọa hôm nay để nhắc nhở một điều quan trọng, đó là thái độ cần có khi nghe giảng Phật pháp. Quí vị cần ngồi nghe với tâm nguyện thật trong sáng. Lý do chúng ta ngồi đây hôm nay, trao...

Người xuất gia lý tưởng theo kinh Trung A-hàm
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Xuất gia theo đạo Phật là một việc cao cả và không nhiều người làm được, tuy nhiên, một người đã phát bồ-đề tâm quyết chí xuất trần, nếu không gặp thuận duyên từ môi trường sống, cộng đồng Tăng lữ, hay không có vị bổn sư co khả năng hướng dẫn...

Long Thọ Và Khoa Học Lượng Tử
Luận, Phật học

Trong thế giới thường nghiệm, con người quen sống theo một thói quen lấy cá nhân làm trung tâm qui chiếu mọi nhận định, đó là một định chế đã được huân tập từ ngày con người xuất hiện. Quan niệm định chế này còn được củng cố bằng thế giới khoa học nhị nguyên chỉ thấy vũ trụ rất trật tự, gọi là quan điểm Cartesian dualism. Trong một thế giới khoa học rất cụ thể và trật tự rõ ràng như thế, thì quả thật khái niệm vô ngã và tính không bất định của giáo...

Phật thuyết kinh Bà-la-môn mất con
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP “Từ bao đời kiếp, chúng ta đã đổ nước mắt vì người thân quá nhiều: hãy để mình và người thân đừng chìm ngập trong nước mắt ấy nữa.” – đức Phật đã dạy như vậy. Vì dòng nước mắt ấy luôn chất chứa tình yêu luyến ái, chảy ra vị mặn của bi...

Tư tưởng duy tâm trong Kinh Lăng-già
Kinh, Phật học

1. DẪN NHẬP Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh Pháp Lăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923) được ghi chép như sau: Nanjō. 375: इत्यार्यसद्धर्मलङ्कावतारो नाम महायानसूत्रं सगाथकं समाप्तमिति॥ ityāryasaddharmalaṅkāvatāro nāma mahāyānasūtraṃ sagāthakaṃ samāptamiti || (Kết thúc chương chỉnh cú của bản...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Hiểu biết về Tánh không
Luận, Phật học

Việc học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng. Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ là toát yếu sơ lược. Điều vô cùng quan yếu là phải hiểu “Tánh không” có nghĩa là gì. Lại cũng quan trọng để biết Tánh không ở ngay trong tâm mình,...

Một Thời Truyền Luật
Luật, Phật học

Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy, vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ...

Tư tưởng Tam giáo nhất trí luận trong tác phẩm Lý Hoặc Luận
Luận, Phật học

Tóm tắt: Lý Hoặc Luận (理惑论) là một tác phẩm của thời kỳ đầu Phật giáo truyền vào Trung Quốc, do một học sĩ tên là Mâu Tử (Mâu Bác) trước tác. Nội dung chính là giảng giải và lý luận về Phật giáo ngoại lai, nhằm kết hợp Phật giáo với tư tưởng Nho giáo và...

Giảng kinh Phước Đức
Kinh, Phật học

PHẦN 1 (Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng ngày 29.12 tại chùa Cam Lộ – Xóm Hạ trong thiền đường Hội Ngàn Sao trong mùa An Cư 2009-2010) Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Duyên khởi và ý nghĩa của Kiết hạ An cư
Kiến thức, Luật, Phật học

Theo luật Tứ phần[1] duyên khởi của Ðức Phật qui định mùa an cư của chúng tỳ kheo xảy ra khi Ngài đang trú tại Xá Vệ, trong vườn của Ông Cấp Cô Ðộc. Nguyên do của việc chế định này là bởi vì sự than phiền của các người cư sĩ đối với nhóm 6...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Năm Và Sáu
Luật, Phật học

LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon – tại vị từ 1853 – 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Tư
Luật, Phật học

I– Thuyết thứ nhất Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Ba
Luật, Phật học

Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ . Vua...