Tiểu Sử
Hòa Thượng THÍCH NHƯ NGHĨA
tự GIẢI QUẢNG
Khai Sơn: Chùa Quảng Hiệp, Xã Tân Hiệp, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, và Chùa Quảng Phước, xã Phước Thái, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai.
Hòa Thượng Thích Giải Quảng, thế danh Trương Đình Ân, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1944 ( nhằm mồng 3 tháng giêng năm Giáp Thân), trong giấy khai sinh năm 1943 vì tăng tuổi để đi học, tại xã Bình Yến, huyện Lý Sơn Tỉnh Quảng Ngãi, trong gia đình có tám Anh Chị Em, Hòa Thượng là con trai Út trong nhà.
Thân phụ là Cụ Ông Trương Hiển, pháp danh Như Tuệ, Cụ Bà là Nguyễn Thị Hãnh, pháp danh Như Nguyện, đồng nguyên quán tại xã Bình Yến, Huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Thuở nhỏ Hoà Thượng đã biểu lộ là một người con vô cùng hiếu thảo, một cậu bé thông minh chăm học, và đặc biệt thường theo Cha Mẹ đến chùa Hải Lâm vào mỗi ngày sóc vọng. Chùa Hải Lâm do cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín chúng con thường xưng gọi là Sư Ông, khai sơn năm 1928, đây là ngôi Chùa rất gần nhà song thân của Thầy, nhờ cơ duyên đó đã gieo hạt nhân duyên cho Thầy hướng đến đời sống tâm linh cho phương trời cao rộng sau này.
Thế nhưng thật tiếc thương! năm Thầy mới chưa đầy 10 tuổi ( 1954), cụ Ông Thân Sinh của Thầy qua đời, trong nỗi đau buồn của đại gia đình chưa được bao lâu thì sau đó mấy năm Cụ Bà Thân Sinh cũng từ giã cõi đời, Lúc đó Thầy mới được 14 tuổi ( 1958). Đau đớn tột cùng, nỗi thân phận của người con mồ côi trong biển đời mênh mông vô tận.
Cũng trong thời gian này (1958), cơ duyên cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín từ trong Tổ Đình Thọ Sơn ra đảo. Thầy đến đảnh lễ Sư Ông và như cơ duyên nhiều đời được định sẵn, lòng chánh tín xuất gia được khơi dậy, Thầy xin Sư Ông xuất gia, sau đó được sự đồng ý của các Anh Chị trong nhà, Thầy vào Tổ Đình Thọ Sơn tại xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi, phát tâm công quả, lập hạnh tịnh nhân tu học. Thầy thọ Tam Quy Ngũ Giới và được Sư Ông Thích Khánh Tín ban cho pháp danh là Như Nghĩa, do yêu thích pháp danh học Phật nên Thầy dùng pháp danh thay cho thế danh.
Sau 3 năm tinh tấn công quả, tu học vào ngày lễ Vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 2 năm Tân Sửu (1961), Thầy chính thức được Sư Ông Thích Khánh Tín thế phát xuất gia. Từ đây, Thầy đã phát tâm tinh tấn dõng mãnh tu học, sớm hôm công quả tu bồi phước đức, chưa một ngày giờ nào ngừng nghỉ. Do vậy Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín và quý Sư Bác như Hòa Thượng Thích Giải An, Hòa Thượng Thích Như Hậu, Hòa Thượng Thích Như Thành,v.v.. lúc sinh thời vô cùng thương yêu và tận tâm trực tiếp dạy dỗ theo Thiền lâm quy cũ, nội điển… Cũng trong thời điểm này Thầy đã hoàn tất chương trình tú tài toàn phần tại trường tỉnh. Thời bấy giờ, Thầy là niềm tự hào của người con hải đảo: Thầy là người thứ hai có bằng tú tài toàn phần trong suốt gần 30 năm trên đất Lý Sơn.
Từ năm 1965-1969 Thầy được sự giúp đỡ của Hòa Thượng Thích Tịnh Giác, lưu trú tại chùa Tịnh Quang tham học Phật Pháp tại Đà Nẵng.
Ngày 1 tháng 8 năm 1969 (PL 2513), GIỚI ĐÀN SA DI được tổ chức tại Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng Đàn Đầu Hòa Thượng Thích Khánh Tín, Yết Ma-a-xà lê Hòa Thượng Thích Huyền Đạt, Giáo Thọ A-xà-lê Hòa Thượng Thích Huyền Tế. Sau khi thọ giới Sa Di Thầy được ban cho pháp tự Giải Quảng. Và điều đặc biệt là Thầy đậu thủ khoa trong kỳ thi sát hạch giới tử. Với bản tánh thông minh thế học và từng bước thẩm sâu Phật học, nên Thầy rất được chư Tăng Ni thương mến.
Trong ba ngày 19, 20, 21 tháng 9 năm Quý Sửu ( ngày 14,15,16 tháng 10 năm 1973), Phật lịch 2017, tại Đại Giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Trung Phần, Nha Trang do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức, Hòa Thượng Đàn đầu- Hòa Thượng Thích Phúc Hộ, Yết Ma-a-xà lê Hòa Thượng Thích Giác Tánh, Giáo Thọ A-xà lê Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm. Thầy được đăng đàn thọ cụ túc giới chính thức bước vào hàng ngũ chúng trung tôn.
Từ năm 1973-1975, Thầy học Phật Khoa của Viện Đại Học Vạn Hạnh, trong thời gian này một nhân duyên đặc biệt Thầy được đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ cho nhập chúng tu học tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam trong suốt thời gian đi học.
Tháng 6 năm 1975, Thầy trở về Tổ Đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi, ngày 8 tháng 11 năm 1975 (Mồng 6 tháng 10 năm Ất Mão), Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín bổ nhiệm làm phó trụ trì chùa Hải Lâm tại quê nhà Lý Sơn.
Từ năm 1979- 1981: Do hoàn cảnh đất nước sau chiến tranh, Thầy bị đưa đi kinh tế mới tại vùng núi Thọ An, huyện Bình Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn trăm bề, người người cơ cực; Thế nhưng, Thầy lại tạo duyên Phật pháp cho rất nhiều người, sáng rẫy chiều nương, đêm đến bên bếp lửa hồng Thầy kể truyện Phật giáo, chia sẻ Phật lý cơ bản cho những người hữu duyên, dạy cho những em nhỏ thất học được biết đọc biết viết.
Năm 1981-1984 được sự thương tưởng bảo bọc của đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Thầy vào lại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, nhập chúng tu học, tiếp tục theo học chương trình Phật Học tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam được Ôn Tuệ Sỹ và Giáo Sư Lê Mạnh Thát, hai bậc Ân Sư thông tuệ trực tiếp hướng dẫn, giảng dạy.
Ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Trí Thủ thị tịch tại Quảng Hương Già Lam. Ngày 8 tháng 5 năm 1984, Thầy rời Sài gòn về xã Phước Thái, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, gần nhà hai người anh ruột (Trương Đình Quý, Trương Đình Trọng), tạo mãi một mảnh đất nhỏ, làm một cốc lá, và sau này Thầy từng bước gây dựng Tịnh Thất Quảng Phước như ngày nay.
Ngày 20 tháng 8 năm năm 1984 ( ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý), Thầy được một số đạo hữu Phật tử tại ấp 3, xã Tân Hiệp, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai mời về hướng dẫn tu học, và từ đây ngôi Chùa Quảng Hiệp được hình thành. Lúc đầu chỉ vỏn vẹn mảnh đất nhỏ khoảng chừng 600 mét vuông, với ngôi chánh điện là 16 tấm tôn cũ, vách nền đều bằng đất, mỗi lần mưa gió to thường ướt đẫm, Thầy nghỉ tại phía sau nhà Tổ với chiếc giường nhỏ và cái bàn cũ thô sơ.
Lễ Vía Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 9 năm Giáp Tý ( ngày 13 tháng 10 năm 1984), do thấy nhu cầu bức thiết trong đời sống sinh hoạt thường ngày của Thầy, Thầy cùng quý Phật tử làm một căn nhà nhỏ bên cạnh bằng cây gỗ đơn sơ, mái lá. Chính căn nhà này trải suốt thời gian 40 năm tròn đã 3 lần chồng từng mái lá lợp lên và lớp tôn cũng gần như hư hoại. Thầy vẫn ở vậy, mặc cho gió nóng nắng mưa, từ những ngày đầu thành lập chùa cho đến khi Thầy viên tịch. Ngôi nhà nhỏ ấy trở thành ngôi phương trượng đậm dấu ấn tâm linh của bậc chân tu qua nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử khắp nơi.
Kể từ năm 1986 đến năm 2015, Thầy chuyên đảm trách bộ môn Hán Ngữ Cổ Đại, và Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Ấn Độ, Trung Hoa cho các trường Cao Trung Phật Học Tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Bên cạnh đó, Thầy còn là Giáo Thọ Sư của nhiều chùa, tự viện, hạ trường trong và ngoài tỉnh Đồng Nai, điển hình như Tu Viện Phước Hoa, Chùa Phước Hải, Thiền Viện Liễu Đức ( Đồng Nai ), chùa Quán Thế Âm ( Sài gòn),v.v…
Vì tâm huyết với đạo Pháp, vì hạnh nguyện giáo hoá độ tha không ngừng nghỉ; ngày mồng 8 tháng 10 năm Quý Dậu (ngày 21 tháng 11 năm 1993), chính thức đặt viên đá xây dựng chánh điện chùa Quảng Hiệp làm chỗ cho tứ chúng tu học. Trong những năm tháng xây dựng và kiến tạo, dù trải qua không biết bao nhiêu gian lao vất vả của thời buổi kinh tế khó khăn, nhưng Thầy vẫn cứ mài miệt chắc chiu vun trồng hạnh nguyện. Ngày 7 tháng 1 năm 1996 (nhằm ngày 17 tháng 11 năm Ất Hợi), lễ khánh thành ngôi bảo điện chùa Quảng Hiệp, công trình so với thời điểm hiện tại thì thật sự rất khiêm tốn, nhưng xét trong thời điểm ấy thì thật là một sự cố gắng, tận tâm tận lực của Thầy và tứ chúng.
Tuy hoàn cảnh tại chùa còn nhiều khó khăn, nhưng Thầy luôn đặt hạnh nguyện tiếp Tăng độ chúng tu học lên hàng đầu. Tính đến nay, hàng đệ tử xuất gia của thầy được hơn 20 vị cả Tăng và Ni, hầu hết đã trưởng thành và hiện đang trụ trì các tự viện trong cũng như ngoài nước; còn đối với hàng Phật Tử tại gia thì trừ những vị tuổi già sức yếu, hay đã qua đời phần đông vẫn về Chùa sinh hoạt như thường lệ, điều đó cũng đủ nói lên công đức hành hoạt Phật Sự của Thầy cao dày đến ngần nào.
Một chiều dài 40 năm tại vùng đất Tân Hiệp, Thầy dùng hạnh nguyện, đức độ của mình mà đem đến lợi lạc cho vô số Phật tử, trên từng nẻo đường của thời gian, không ngại nắng mưa gió bụi, từng nhiều thế hệ Tăng Ni cũng nhờ ân đức này mà thêm thấm nhuần Phật Pháp.
Thầy cũng luôn ươm mầm cho thế hệ tương lai, Gia Đình Phật tử cũng là một Phật sự trọng yếu của đời Thầy. Từng lớp thanh thiếu niên từ nơi gia đình Phật tử Quảng Hiệp đã trưởng thành, có vị xuất gia trở thành Tăng Ni cùng góp phần xây dựng đạo pháp.
Mặc dù Thầy rất bận Phật sự, giáo dục Tăng Ni nhưng Thầy vẫn dành thời gian để biên soạn, phiên dịch: Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Trung Đẳng Phật Giáo Khoa Thư (phiên dịch)…
Cuộc đời Thầy có thể gói gọn trong mấy chữ: AN BẦN LẠC ĐẠO, nếp sống thiền môn với tâm Hiếu Đạo, Chân Thành, Nhẫn Nại, Khiêm Cung, Thiểu Dục-Tri Túc. Dù hoàn cảnh xã hội nhiều biến động như sóng cuộn, nhưng thầy vẫn không ti vi, điện thoại, tủ lạnh, cuộc sống tối mực giản đơn: TAM THƯỜNG BẤT TÚC.
Trong suốt 40 năm khai sơn kiến tạo chùa Quảng Hiệp tại vùng đất Đồng Nai, xa quê hành đạo không thường xuyên sớm hôm bên cạnh phụng dưỡng Tôn sư ( Sư Ông Thích Khánh Tín) tại quê nhà. Tuy vậy, sau mỗi mùa An Cư kiết hạ, Thầy đều về Tổ đình Thọ Sơn thăm và đảnh lễ Sư Ông. Sau khi Sư Ông Thích Khánh Tín viên tịch, suốt mấy mươi năm, chưa từng vắng lần nào trong ngày húy nhật Sư Ông, thậm chí lễ húy nhật của quý Ngài trong môn phong Thọ Sơn Thầy luôn dành thời gian thăm viếng; một điều đặc biệt là Thầy chọn phương tiện di chuyển về quê trên chiếc xe đò bình dị như ngày nào.
Đạo phong uy lực của Thầy bằng sự lão thật niệm Phật, dùng Đại bi Chuẩn đề, tọa thiền làm phương tiện trợ duyên. Chính vì vậy, đời sống của Thầy lúc nào cũng thanh nhàn và an tịnh trước bao chướng duyên nghịch cảnh của cuộc đời.
Mấy tháng cuối đời, tuy thân nhiều trọng bệnh, nhưng Thầy vẫn an nhiên, thậm chí trước khi viên tịch 6 giờ đồng hồ vẫn điềm tĩnh, tâm trí sáng suốt nhớ từng học trò và những người thân cận của Thầy.
Hạnh nguyện châu viên, đúng 0 giờ 0 phút (12 giờ đêm) ngày 15 tháng 11 năm 2024, (0 giờ 0 phút ngày rằm tháng 10 năm Giáp Thìn, Thầy an nhiên thị tịch trụ thế 81 năm, đạo lạp 66 năm, hạ lạp 52 năm.
Thầy viên tịch không chỉ là nỗi mất mát đau thương cho tứ chúng Phật tử chùa Quảng Hiệp, mà Phật giáo mất đi bậc chân tu thạc đức. Đức hạnh của Thầy là điểm sáng muôn đời cho hậu bối noi theo.
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhất Thế, Chúc Thánh Pháp Phái, Khai kiến Quảng Hiệp, Quảng Phước Nhị Tự, húy thượng Như hạ Nghĩa, tự Giải Quảng, Trương Công Hòa Thượng Giác Linh, thùy từ chứng minh.
Tân Hiệp, ngày 15 tháng 11 năm 2024
Môn Đồ Pháp Quyến phụng soạn