(TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ THÍCH TUỆ SỸ)

Thầy sinh ra và lớn lên tại thành phố Paksé, tỉnh Champasak, Lào; năm chín tuổi được phụ mẫu gửi vào ngôi chùa làng gần nhà (chùa Trang Nghiêm) hành điệu. Thiên bẩm thông minh, học đâu nhớ đó, điều này khiến cho thân mẫu lo sợ, liên tưởng tới thần đồng Hạng Thác (項槖, thần đồng cổ đại Trung Quốc, sống ở nước Cử 莒国, thời Xuân Thu 春秋) mạng yểu mất sớm, bèn bảo người cha nên cho thầy uống mực Tàu để “tối dạ” bớt đi. May sao thân phụ của thầy không làm. Câu chuyện được thầy kể cho tôi nghe trong những năm thầy an cư tại Nha Trang. Ngẫm lại, nếu nhỡ Nghiêm đường cho thầy uống mực Tàu thì phải cần số lượng bao nhiêu để cho thầy “tối dạ”, và có thay đổi được bẩm tính triết gia hay tư chất đại sư “Long Thọ” trong con người thầy hay không?

“Ai biết mình tóc trắng,
Vì yêu ngọn nến tàn,
Rừng khuya bên bếp lạnh,
Ngồi đợi gió sang canh.”

Thầy làm thơ nhiều nhưng tôi thích nhất bốn câu thơ này. Bài thơ ra đời giữa núi rừng Vạn giã vào năm 1975. Tôi hồi tưởng, thuở ấy, một nhà tu dáng vóc gầy gò, đơn phương nặng lòng với tình yêu dân tộc, ngồi thả hồn nơi rừng khuya cô tịch, nhìn ánh sao mai xa xăm, tự biết: “Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất; hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.”

Ba mươi chín năm sau, núi rừng Vạn giã qua bao mùa thay lá, năm 2014, thầy lại về đây, nơi ngôi cổ tự Linh Sơn, an cư cấm túc 3 tháng mùa Hạ. Hạ năm ấy, thầy đã giảng cho các học trò: Tôi, Nguyên An, Đạo Luận nghe về triết học Trung quán.

Chung cục lịch sử một đời người, thầy ra đi không lặng lẽ, thầy cống hiến gì cho dân tộc sử đã ghi, thầy đã làm gì cho Phật giáo, tất cả đều biết. Song, để quá khứ trở thành vĩnh cửu trong hoài niệm là điều tôi luôn cưỡng lại, nên muốn viết gì đó trước khi mọi thứ tan biến như sương mai theo thời gian.

TRIẾT HỌC TRUNG QUÁN VÀ “BÁT BẤT’’

1. Sự ra đời của triết học Trung quán:

Triết học Trung quán là chỉ cho giáo nghĩa “Trung đạo” nằm trong luận thư Trung luận do Long Thọ trước tác, học thuyết này ra đời trong giai đoạn từ năm 100 đến 250 sau Tây lịch; thời kỳ miền Đông nam Ấn-độ thuộc khu vực phát triển của Đại chúng bộ, hướng Tây bắc là vùng thịnh hành của Thượng tọa bộ. Thượng tọa bộ câu nệ bảo thủ, Đại chúng bộ hoạt bát, tiến thủ. Phương Nam trọng lý tính, xem nhẹ sự tướng nhân quả Duyên khởi. Phương Bắc hoàn thành bộ luận Đại tỳ-bà-sa, nội dung cực đoan thật Hữu. Nam chấp Không, Bắc chấp Có. Hình thành nhiều phái đối lập gay gắt, một thời kỳ như thiếu vận may cho Phật giáo. Đến khi Long Thọ xuất hiện, Phật giáo chính thức rẽ sang một hướng mới, tổng hợp Nam-Bắc, Không-Hữu, Tánh-Tướng, Đại-Tiểu, kiến lập Phật giáo Trung đạo, xây dựng nền tảng Đại thừa tánh Không. Long Thọ viết Trung luận gồm 27 chương (phẩm), được trích lục từ Vô úy luận (mười vạn bài kệ) cũng do ngài trước tác; đề xướng Duyên khởi, Không, Trung đạo, lấy Trung đạo lìa nhị biên làm tông yếu. [中觀今論, Y09, no. 9, p. 13a3. ]

Trong Trung luận [中論卷1, T30, no. 1564, p. 1b14], bài kệ đầu tiên của phẩm Quán nhân duyên nói:

Bất sinh diệc bất diệt,
Bất thường diệc bất đoạn,
Bất nhất diệc bất dị,
Bất lai diệc bất xuất.
Năng thuyết thị Nhân duyên,
Thiện diệt chư hý luận,
Ngã khể thủ lễ Phật,
Chư thuyết trung đệ nhất.

Tám sự phủ định (bát bất) trên chính là lý Duyên khởi (pratītya-samutpāda), cũng là thuyết Trung đạo (madhyamā-pratipad). Trung đạo là không rơi vào nhị biên (antadvaya), là bên tà hay quá cực đoan. Đây là nguyên tắc chuẩn mực mà hàng đệ tử của Phật đều phải tuân thủ hợp nhất cả tri kiến và hành động. Như trong kinh Câu-lâu-sấu vô tránh, Phật dạy: “Đừng nên quá đắm nhiễm dục lạc (莫求欲樂, na kāmasukham anuyuñjeyyalà nghiệp vô cùng hèn hạ (極下賤業, hīnaṃ gammaṃ)… Cũng đừng mong cầu tự thân khổ hành, rất khổ, không phải Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích (無義相應, anatthasamhita). Xa lìa hai cực đoan này thì có Trung đạo (Ete te ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā).” [中阿含經卷43, T01, no. 26, p. 701]. Nghĩa là tu tập không nên tinh tấn quá mức mà khiến tâm loạn động; ngược lại không tinh tấn thì tâm buông lung, giải đãi. Điều hòa cả hai thái cực chính là lý Trung đạo.

Và vì sao Trung luận của Long Thọ lại được gọi là triết học Trung quán? Bởi vì tông chỉ của tác phẩm Trung luận là y cứ kinh điển luận giải, ngoài trọng tâm phân tích nghĩa lý sâu xa, Trung luận còn dạy về “thực hành pháp quán”, lấy chỉ và quán làm chủ đích. Trong 27 phẩm của Trung luận, mỗi phẩm đều gọi là “quán”, như phẩm Quán nhân duyên cho đến phẩm Quán tà kiến v.v… Quán tức quán sát, quán một cách chính xác về lý Duyên khởi, Không, Trung đạo. Từ quán xét luận chứng mà đạt đến hiện quán thể chứng. Vì thế đời sau đều gọi học thuyết của Long Thọ là phái Trung quán, tông Trung quán và các học giả Trung quán là tông sư Trung quán. [空之探究, p. 209a7. 中觀今論, p. 3a11.]

Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ và các học trò (Ảnh tư liệu của tác giả)
Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ và các học trò (Ảnh tư liệu của tác giả)

2. Thầy Tuệ Sỹ luận giảng “Bát bất”:

Mùa an cư năm ấy (2014), trong tịnh thất ở chùa Linh Sơn, lần đầu tiên tôi bị lôi cuốn bởi nguồn triết học uyên áo này. Thầy Tuệ Sỹ giảng lại bài kệ đầu tiên trong Trung luận. Bản Trung luận hiện lưu trong tạng Đại chánh là Trung luận (Mūlamadhyamaka-kārikā) kệ tụng và giải thích, do Thanh mục (Piṅgalanetra) chú giải, Hán dịch bởi Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva). Kệ tụng đầu tiên trong bản Hán:

不生亦不滅,
不常亦不斷,
不一亦不異,
不來亦不出.
能說是因緣,
善滅諸戲論,
我稽首禮佛,
諸說中第一.

Dịch âm:
Bất sinh diệc bất diệt,
Bất thường diệc bất đoạn,
Bất nhất diệc bất dị,
Bất lai diệc bất xuất.
Năng thuyết thị Nhân duyên,
Thiện diệt chư hý luận,
Ngã khể thủ lễ Phật,
Chư thuyết trung đệ nhất.

Tạm dịch:
Không sinh cũng không diệt,
Không thường cũng không đoạn,
Không một cũng không khác,
Không đến cũng không đi.
Đây là pháp Nhân duyên,
Diệt trừ các hý luận.
Cúi đầu lễ chư Phật,
Thuyết Nhân duyên cao nhất.

Thầy nói rằng, không hiểu sao Cưu-ma-la-thập khi dịch sang Hán đã đảo văn, khác với nghĩa gốc bản Phạn, có thể ông cố tình dịch vậy cho người Trung Hoa dễ hiểu, hay ông không hiểu lý Duyên khởi của Long Thọ, đã làm đảo lộn cả nền triết học Trung quán.

Trong Phạn bản văn nghĩa như sau:

anirodham anutpādam anucchedam aśāśvataṃ | anekārtham anānārtham anāgamam anirgamaṃ ||
yaḥ pratītyasamutpādaṃ prapañcopaśamaṃ śivaṃ | deśayāmāsa saṃbuddhas taṃ vande vadatāṃ varaṃ ||

Việt dịch:

Kính lễ đức Chánh đẳng giác, đệ nhất trong các vị thuyết giáo;
Ngài đã thuyết Duyên khởi, sự tịch tĩnh của hý luận, chí phước,
Bất diệt, bất khởi, bất đoạn, bất thường,
Bất nhất (không nhất thể), bất dị (không đa thù), bất lai (không hiện đến), bất xuất (không bỏ đi).

2.1. Đầu tiên thảo luận về vế “Bất diệt, bất khởi” (anirodham anutpādam).

Bắt đầu câu chuyện, thầy lấy ví dụ cái vòng hào quang sau lưng tượng Phật. Thông thường khi có dòng điện truyền dẫn, chúng ta thấy có vô số ánh hào quang phóng ra, tạo thành một vòng tròn tỏa sáng liên tục và khép kín. Kỳ thật, các bóng đèn được xếp theo vòng tròn, ánh sáng của bóng đèn trước tắt, bóng sau sáng, với nguyên tắc, ánh sáng trước “diệt”, ánh sáng sau “khởi”, tự nó đã tạo ra cái vòng tròn không có khởi điểm, không có khởi đầu, đây chính là triết lý một cái vòng tròn vô tận, không phải một đường thẳng. Và nên biết, ánh sáng của bóng đèn trước tắt là tắt vĩnh viễn, không bao giờ trở lại; ánh sáng của lần thứ hai không phải ánh sáng trước. Ánh sáng lần thứ hai do dòng điện khác truyền vào, khiến chúng ta thấy có ánh sáng trở lại, sinh rồi diệt cứ như vậy vô tận nhưng thật sự cái nào diệt là diệt luôn. Bởi vì, thường một pháp có hai tính chất, hay có hai khía cạnh là “Hữu vi” và “Vô vi”. Một tính chất đứng trên phương diện hiện tượng, khi diệt chìm xuống rồi lại khởi lên, diệt rồi sinh, sinh rồi lại diệt đó pháp vô thường, “Hữu vi”. Một tính chất khác, diệt là diệt luôn, trở về bản thể Niết-bàn, thường tịch vắng lặng là pháp “Vô vi”. Duyên khởi mà Long Thọ muốn nói chính là Niết-bàn tịch diệt, “Không diệt, không khởi”. Bản tính của Duyên khởi là chỉ cho hai mặt, thứ nhất nói về phương diện Thế tục là có diệt có sinh như chúng ta thường thấy, có quan hệ duyên sinh duyên khởi, cái này có cái kia có. Nhưng mặt khác bản chất của Duyên khởi là Niết-bàn là “Bất diệt anirodham”.

Luận về “Bất khởi – anutpādam”. Trong văn Hán dịch là “bất sinh 不生”. Nếu dịch sát nghĩa Phạn: anutpādam, là bất khởi. Âm “a” phủ định, do đứng trước nguyên âm “u” nên thêm chữ “n” sau “a”. Chữ “utpādam”, dịch là khởi lên, hoàn toàn khác nghĩa với từ “sinh 生” trong Hán văn. Sinh có nghĩa từ một sự vật sinh ra một cái khác đồng loại với nó, như mẹ sinh con; còn chữ “utpādam” là khởi, khởi là thế nào? Từ ngàn xưa, theo truyền thống tư duy Ấn-độ, hoặc đối với giáo nghĩa Nguyên thủy, Tiểu thừa, hay hệ thống Bát-nhã đều nhất quán: Tất cả các pháp tồn tại là “Pháp tánh như thị 法性如是”, tức trong tự tánh Niết-bàn là vắng lặng, tịch diệt như mặt hồ tĩnh lặng không có gió. Bỗng nhiên, có ngọn gió thổi đến khiến ba đào sóng dậy. Nhìn từ bản chất tự tính của vũ trụ là tịch tịnh Niết-bàn, rồi do vô minh vọng động, ngọn gió của phiền não nghiệp thổi qua gây ra làn sóng thiên hình vạn trạng. Nhưng dù ngọn sóng nổi lên 10 thước hay 100 thước thì nước vẫn là nước, tính nước không khởi, và cũng không thêm không bớt, thành ra sóng khởi lên chứ tính nước không khởi. Do đó nước khởi sóng mà nước vẫn tĩnh lặng, triết lý “bất khởi” là vậy, cho nên chữ “khởi” khác với chữ “sinh”.

Với nguyên lý triết học này, nếu Cưu-ma-la-thập dịch “bất sinh diệc bất diệt” (không sinh cũng không diệt) tức đặt sinh trước rồi diệt sau là có điểm khởi đầu và kết thúc, tạo thành một đường thẳng. Nhưng nói “bất diệt” trước mới đến “bất sinh (khởi)”, đặt cái bất diệt trước để chỉ cái vô tận, không có khởi đầu, không có khởi điểm.

2.2. “Bất đoạn, bất thường” (anucchedam aśāśvataṃ).

Trở lại hình ảnh con sóng, lúc lên lúc xuống, diệt rồi khởi, trên mặt hiện tượng lúc có gió khởi sóng, lúc không có gió yên lặng, lúc có, lúc không, nghĩa là có lúc bị cắt đứt đoạn tận (śāśvata, 斷), có lúc tiếp nối thường hằng (śāśvata, 常); hay dòng nước ấy có khi thành sóng, có khi thành lũ lụt, biến thiên nhiều thứ tác hại nhưng tính nước không thay đổi. Như vậy, về mặt Tục đế thì có diệt, có khởi, có đoạn, có thường, nhưng về Chân đế thì bất diệt, bất khởi, bất đoạn, bất thường. Cho nên Long Thọ (Nāgārjuna) phát biểu trong Trung luận (4, T30n1564, p. 32c16):

“Chư Phật y trên nhị đế để thuyết pháp cho chúng sanh; một là Thế tục đế, hai là Đệ nhất nghĩa đế (Dve satye samupāśritya buddhānāṃ Dharma-deśanā, Lokasaṃvṛt satyam ca satyaṃ ca paramārthataḥ). Nếu chúng ta không biết phân biệt hai đế này thì đối với pháp Phật sâu xa không thể biết được ý nghĩa chân thật (Ye ‘na yor navijānanti vibhāgaṃ satyayor dvayoḥ, Te tattvaṃ na vijānanti gambhīraṃ buddhaśāsane).

Thế Tục đế là đối với các pháp đều là tính ‘Không’ mà người thế gian điên đảo, đối với các pháp sinh khởi hư vọng cho là thật. Các bậc Thánh nhân nhận chân các pháp là ‘Không’, không sinh điên đảo, đó là Đệ nhất nghĩa đế.

Và ‘Pháp mà do nhiều duyên sanh ra, tôi (Long Thọ) gọi nó là tánh Không, cũng gọi là giả danh, cũng chính là Trung đạo.’ (Yaḥ pratītyasamutpādaḥ śūnyatāṃ tāṃ pracakṣmahe, sā prajñaptir upādāya pratipat saiva madhyamā).” (Trung luận 4, p. 33b10).

2.3. “Bất nhất, bất dị” (anekārtham anānārtham)

“Nhất” và “dị”, “một” và “khác”, “đồng nhất” và “dị biệt” (đa thù) là nguyên tắc khái niệm, nhận thức về một điều gì đó. Ví dụ, chúng ta nhìn vào một đàn bò đứng gặm cỏ ở đồng nội, nào là bò vàng, bò sữa, bò đốm, bò nâu v.v… Theo lý Duyên khởi, trong đàn bò có sự dị biệt là mỗi con mỗi màu, con bò này của ông A, con bò kia của ông B, nhưng trên nguyên tắc đồng nhất chỉ cần một con có thể biết những con khác là bò, không phải là trâu. Hoặc một người khi làm diễn viên có thể thủ nhiều vai diễn, có lúc làm vua, có khi làm tướng cướp, lúc làm thường dân, nhưng chỉ có một người mà thôi. Thêm một ví dụ khác, có câu chuyện người cha dạy đứa con viết chữ nhất (一) trên vở, sau đó đi ra phố, người cha chỉ lên bảng hiệu của một nhà hàng người Hoa, có chữ nhất viết rất to, ông hỏi đó là chữ gì? “Chữ đó bố chưa dạy con”. Ông cha la, bố mới dạy con đó! Đứa con trả lời, chữ nhất con học nhỏ xíu, còn chữ kia to vậy sao là chữ nhất được?! Đứng về “Sự” thì chữ “nhất” trong vở và chữ “nhất” ngoài bảng hiệu hai chữ khác nhau, có lớn có nhỏ nhưng về “Lý” thì chỉ có một.

Do đó, muốn nhận thức được thế giới xung quanh chúng ta là gì thì không thể thiếu tư duy đồng nhất. Đồng thời, “nhất” (một) và dị (khác) là hai cái khung của khái niệm nhận thức, nếu chúng ta bỏ cái nhất và dị đi thì không thể nhận thức thế giới xung quanh hay vật trước mắt chúng ta nó là cái gì. Nói cách khác, thế giới hiện tượng (Sự) có thiên hình vạn trạng, đa thù nhưng “phi đa thù” (bất dị, anānārtham) vì bản thể (Lý) chỉ là một. Và trong cái đồng nhất, lại có chủng chủng sai biệt (nānā), vì các pháp hữu vi không bao giờ tồn tại độc lập, phải có cái khác nên “phi nhất thể” (bất nhất, anekārtham). Sự mâu thuẫn biện chứng giữa “Lý” và “Sự” được lý Duyên khởi giải quyết, quán chiếu hợp nhất vừa bản thể vừa hiện tượng, tức “Bất nhất, bất dị”. Triết lý trong kinh Hoa nghiêm gọi là “Lý Sự vô ngại” chính y cứ trên cơ sở của triết học Trung quán này.

2.4. “Bất lai, bất xuất” (anāgamam anirgamaṃ)

Āgama, nghĩa là đến (lai 來); nirgama dịch là xuất đi, tách rời (xuất 出). Ở trên, “Bất nhất, bất dị” là mặt nhận thức luận về thế giới; cặp tiếp theo “Bất lai, bất xuất (không đến, không đi)” là nói về hiện tượng luận. Long Thọ đưa ra nguyên tắc này là phá đổ lý thuyết thế giới vũ trụ do Thượng đế sinh ra. Trong thế giới xung quanh chúng ta không có vật nào sinh ra vật nào. Một cái nhà xuất hiện không phải từ gỗ, hay gạch đá sinh ra; hỏi rằng trước khi có cái nhà nó từ đâu xuất hiện. Trả lời, nó xuất hiện từ gỗ không đúng, hay nói nó không xuất hiện từ gỗ cũng không đúng. Nó chỉ đủ duyên xuất hiện, cái này có cái kia có, cho nên nói nó không đến không đi. Vũ trụ vạn vật có diệt-sinh, đoạn-thường, một-khác, đến-đi nhưng lý Duyên khởi là bất diệt-bất khởi (sinh), bất đoạn-bất thường, không một-không khác, không đến-không đi, hiểu như vậy là trở về với bản thể Niết-bàn. Thành ra “Bát bất” (8 cái phủ định) trở thành “vòng tròn” hệ thống mắt xích, không có cái nào lọt ra khỏi “vòng tròn” triết lý này được. Một vòng tròn đi hết điểm này sẽ trở về điểm đầu, và không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc.

Một vòng tròn khép kín theo triết học Trung quán, thì câu chuyện của thầy trò cũng vậy, không có hồi kết ở đây.

3. Dòng tưởng niệm chưa hồi kết:

Câu chuyện thuật lại không phải:

“Lời quê chắp nhặt dông dài;
Mua vui cũng được một vài trống canh.”

Đọc để thưởng lãm thì không có gì để luận bàn. Giáo nghĩa trên là một thang thuốc mang hoạt tính cực mạnh và liều lượng khá cao, cơ địa yếu ớt khó có khả năng dung nạp.

T.R.V. Murti là một nhà tư tưởng lớn thấm nhuần cả hai nền triết học phương Tây và phương Đông, ông đã kêu gọi thế giới quay về đời sống tâm linh phương Đông, đặc biệt là Trung quán, xem như đó là lối thoát cuối cùng và duy nhất cho nhân loại.

Châu âu, ngày 9 tháng 10 năm 2024 (mùng 7 tháng 9, Giáp thìn).
Tâm Nhãn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Ý nghĩa phương tiện và cứu cánh qua phẩm Tín giải trong Kinh Pháp Hoa
Kinh, Phật học

Kinh Pháp Hoa gửi thông điệp: Ai cũng sẽ thành Phật. Các tôn giáo khác không bao giờ nói tín đồ bằng giáo chủ, đây là điểm khác biệt trong Phật giáo. Tóm tắt phẩm Tín giải Sau khi nghe về pháp Phương tiện và được đức Phật khai mở về Nhất thừa giáo, đặc...

Nghiên cứu triết lý kinh Pháp Hoa qua Phẩm Tựa
Kinh, Phật học

Sự ra đời của kinh Pháp Hoa chính là để hòa giải, thống lĩnh, điều hòa và hợp nhất các tông phái nên tạo ra nhất thừa. 1. Bối cảnh lịch sử ra đời kinh Pháp Hoa 1.1. Bối cảnh lịch sử Những diễn biến về mặt Tôn giáo Sau Phật Niết-bàn khoảng một trăm...

Lược Khảo Về Tư Tưởng Niệm Phật
Luận, Phật học

Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di đà là tính sáng soi, Mựa phải nhọc nhằn tìm về Cực Lạc.[1] I. DẪN KHỞI “Lúc Ta mới ngồi nơi đạo tràng, dưới cội Bồ-đề, quán sát và đi kinh hành, trong hai mươi mốt ngày, suy nghĩ như vầy: Trí tuệ mà Ta đã đạt được thật là vi diệu đệ nhất. Chúng sanh các căn ám độn, đắm...

Kinh Kiến Chánh – Thích Nguyên Hiền dịch
Kinh, Phật học

NHÂN DUYÊN DỊCH KINH KIẾN CHÁNH Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Từ lúc xuất gia, ngay cả nhiều năm được diễm phúc tiếp xúc với Đại tạng kinh, tôi vẫn chưa bao giờ nghe đến tên kinh Kiến Chánh. Năm Quý Mùi (2003), tôi may mắn được về hầu Thầy nhập thất. Một...

Đại ý Kinh Lăng Già
Kinh, Phật học

108 nghĩa đúng với thực tướng như xa rời thế gian. 39 môn phái ý kiến giải, mà tuyên truyền chính pháp. Hiểu rõ danh và tướng đều là giả trá bởi mê vọng thường ấp ủ, dựa chính trí để hiểu chân như giác ngộ lý duyên khởi mà quy chân lý màu nhiệm....

Bát Nhã Ba La Mật Đa
Kinh, Phật học

Wikipedia: Bát-nhã-ba-la-mật-đa (zh. 般若波羅蜜多, sa. prajñāpāramitā, en. perfection of wisdom/insight, de. Vollkommenheit der Weisheit/Einsicht/Erkenntnis) có nghĩa là sự toàn hảo (sa. pāramitā, en. perfection) của Bát-nhã (sa. prajñā). Cũng được gọi ngắn là Bát-nhã-ba-la-mật. Danh từ nguyên thủy Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ (zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia. Tuy không hoàn...

Từ nguyên và hình thức sám hối của người xuất gia
Luật, Phật học

1. GIẢI THÍCH TỪ NGUYÊN: Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ:...

Vai trò của giới luật trong nếp sống thiền môn
Luật, Phật học

Trong tam tạng kinh điển thì luật tạng (vinaya) có một vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Theo thứ tự sắp xếp thông thường thì tam tạng bao giờ cũng được sắp xếp tuần tự từ kinh, luật và luận. Nhưng theo văn học Pāli, luật tạng được xếp đầu tiên sau đó đến kinh và luận. Điều này cho thấy rằng, luật tạng luôn được đặt trọng tâm trong nếp sống tu học của tứ...

Tìm hiểu Thành Thật Luận
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Đức Phật Thích ca Mâu ni, ngay khi còn thị hiện là Thái tử Tất đạt đa đã vì cảm thấu nỗi thống khổ miên trường của kiếp nhân sinh mà xuất gia. Sau khi thành đạo, Ngài đi khắp nơi trong cõi Ấn độ mà thuyết kinh giảng pháp, khai hóa...

Luận khơi dậy đức tin Đại thừa
Luận, Phật học

LUẬN KHƠI DẬY ĐỨC TIN ĐẠI THỪA Nguyên tác: Bồ-tát Mã Minh Hán dịch: Tam tạng pháp sư Chân Đế, người Tây Ấn Độ, dịch vào đời nhà Lương Việt dịch: Sa-môn Nguyên Hùng LỜI BẠT  I. Tác giả Mã Minh (Aśvaghosa, 馬鳴, 100-160), người Trung thiên trúc, vốn xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành Sa-chi-đa, nước Xá-vệ. Thời đại...

Nghĩ về tánh Không
Luận, Phật học

Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau. Nhưng trong Phật giáo, cả hai đều...

Tâm Lý Học Phật Giáo
Luận, Phật học

TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO Thích Chơn Thiện A. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT I. Về tâm lý học phương Tây 1. Các định nghĩa: Các dịnh nghĩa tâm lý học trước thế kỷ XX (tiêu biểu): a. Wilhelm Wundt (1832 – 1920), người Đức: Wundt là nhà sáng lập phòng thực nghiệm về tâm lý đầu tiên gọi là Psychological laboratory (1879), định nghĩa: “Tôi thiết...

Nghiệp Và Các Loại Nghiệp | U Silannanda – Khánh Hỷ dịch
Luận, Phật học

Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo; bởi vì luật Nghiệp Báo đã giải thích cho họ thấy rõ lý do của sự bất đồng của các cá nhân trong xã hội con người, đồng thời cũng giải thích cho họ biết tại sao những người rất tốt trên cõi đời này lại...

Quá trình hình thành giới luật
Luật, Phật học

Những quy tắc đạo đức có một vị trí rất quan trọng trong hầu hết các tôn giáo. Pháp luật hay các quy ước là điều cần thiết đối với bất cứ thành viên nào trong xã hội.Trong mỗi gia đình nếu không có quy tắc, gia đình đó sẽ xảy ra bất đồng; một quốc gia, nếu không có phép nước, thì quốc gia đó sẽ nổi loạn. Trong Phật giáo cũng vậy, giới luật đóng một vai trò vô cùng đặc biệt. Giới được xem...

Nhiếp phục sợ hãi
Phật học

Thông thường sống trên cuộc đời, có bốn việc mà ai cũng sợ gặp phải. Trước nhất con người hiện hữu trên cuộc đời, có cuộc sống thì thường sợ nghèo đói và kế tiếp sợ bạn bè xem thường, rồi sợ già, sợ bệnh và sợ chết, mà Đức Phật gọi bốn thứ này...

Du Già Bồ Tát Giới Bổn – Di Lặc Bồ Tát Tuyên Thuyết
Luật, Phật học

Các vị Bồ tát! sau khi đã thọ lãnh giới pháp thanh tịnh của Bồ tát, phải nên tự mình thường thường chuyên tâm cẩn thận suy ngẫm: “Đây là chỗ Bồ tát nên làm, đây là chỗ Bồ tát không nên làm”. Suy ngẫm như vậy rồi, vì muốn thành tựu công hạnh Bồ tát, cần phải siêng năng tu tập, lại phải chú ý lắng nghe tạng Tố đát lãm, và tạng Ma đát...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.