Đạo Phật hiện nay được truyền bá trên một phạm vi rộng lớn về không gian và lâu dài về thời gian, truyền thống sinh hoạt của Tăng đoàn do đó cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều tùy theo điều kiện lịch sử, địa lý khu vực mà Tăng đoàn hoạt động. Đây cũng là một trong số những nguyên nhân cho sự có mặt của nhiều bộ Luật trong Phật giáo. Tuy nhiên sự sai khác giữa các truyền thống Luật tạng chỉ là những chi tiết nhỏ nhặt, còn về mặt nền tảng cơ bản thì không hề có sự thay đổi. Nhìn vào giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, hay các pháp Yết-ma được hành trì trong mỗi bộ Luật sẽ dễ dàng nhận ra điều đó.
Việt Nam, kể từ khi các Tổ chấn hưng Phật giáo vào những năm đầu của thế kỉ 20, việc tổ chức Giới đàn, truyền thọ giới pháp cụ túc là vấn đề được đặc biệt quan tâm chấn chỉnh của thế hệ Tăng-già đương thời. Phật giáo Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng hai bộ Luật chính: Truyền thống Bắc tông sử dụng bộ Luật Tứ Phần, và truyền thống Nam tông sử dụng bộ Luật Pali. Tuy mỗi truyền thống sử dụng chung một bộ Luật, nhưng việc áp dụng Luật vào thực tế thì vẫn còn nhiều sự sai khác rất đáng lưu tâm. Qua việc quan sát các giới đàn hiện nay ở Việt Nam và đối chiếu vào bổn Luật[1], người viết xin được đề cập đến vấn đề túc số Tăng trong truyền thọ Cụ túc giới hiện nay.
Giới Cụ túc具足戒 , tiếng Phạn gọi là upasampāda, Hán dịch là Cận viên, cụ thọ, viên cụ... Có nghĩa là sự thành tựu trọn vẹn, hoặc là bước lên chỗ cao. Theo Câu xá giải thích, giới Tỷ-kheo sở dĩ được gọi là cụ túc, vì nó thể hiện trọn vẹn đời sống của một thánh giả A-la-hán. Còn các loại khác của Thanh văn không được gọi cụ túc, vì chúng chỉ mô phỏng một đời sống cao thượng của A-la-hán[2].
Các nhà giải thích Luật của phái Tỳ-bà-sa (Nhất thiết hữu bộ), nêu ra mười trường hợp đắc giới Cụ túc[3]: 1, Tự nhiên đắc giới; 2, Kiến đế đắc giới; 3, Thiện lai Tỷ-kheo; 4, Do xác nhận Phật là Đại sư; 5, Do khéo trả lời; 6, Do thọ bát kỉnh pháp; 7, Do gửi đại diện; 8, Do người thứ năm là người trì luật; 9, Thọ với Tăng gồm mười vị Tỷ-kheo; 10, Tam ngữ đắc giới.
Bảy trường hợp đầu là những trường hợp hi hữu. Còn lại ba trường hợp sau, các bộ phái xem đó là truyền thừa chính thức. Riêng về Tam ngữ đắc giới thì chỉ áp dụng lúc Phật còn tại thế, và trước khi Phật quy định Bạch tứ yết-ma khi thọ Cụ túc, tức là trước khi quy định về trường hợp thứ 8 và thứ 9.
Để đắc giới, về hình thức, cần phải hội đủ các yếu tố: tư cách người thọ giới, tư cách giới sư, hành sự của Tăng hợp pháp (tức là Yết-ma như pháp).
Để Yết-ma như pháp cần hội đủ các điều kiện: Giới thành tựu, tức điều kiện giới trường; Sự thành tựu, tức giới tử không có các trường hợp trở ngại; Tăng thành tựu, tức Tăng phải đủ túc số; Yết-ma thành tựu, tức bạch tứ Yết-ma đúng pháp[4].
Túc số Tăng trong bạch tứ Yết-ma truyền giới cụ túc là 10 vị Tỷ-kheo ở những nơi đô thị, nơi có thể tập họp Tăng đủ số 10 người. Ở những vùng biên cương, không thể tập họp được Tăng 10 người thì chỉ cần 5 người, trong đó có ít nhất một người thông suốt Luật. Như vậy có thể hiểu, ở những vùng biên cương, số lượng Tăng ít, thì có thể được cho phép thọ giới với túc số Tăng 5 vị. Hiển nhiên thời Phật tại thế, việc từ trú xứ này đến trú xứ khác rất khó khăn, việc tập hợp Tăng khá là trở ngại do các điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Ví dụ, trú xứ này muốn tổ chức truyền giới Cụ túc nhưng không đủ 10 vị Tỷ-kheo, phải đến trú xứ khác thỉnh cầu, nếu cho khoảng cách giữa hai trú xứ là vài do-tuần, một do-tuần khoảng 10 ki-lô-mét[5], đi bộ sẽ mất nhiều ngày, rồi Tăng từ trú xứ được thỉnh cầu lại đi đến trú xứ này để tác pháp thì mất thêm rất nhiều thời gian, hoặc dễ xảy ra các nạn sự, thậm chí không đảm bảo được sự an toàn dọc đường, chưa kể là đến trú xứ khác chưa chắc đã gặp được Tỷ-kheo ở đó, vì thời bấy giờ không có phương tiện thông tin liên lạc để báo trước, trong khi Tỷ-kheo thì thường “du hóa trong nhân gian”. Vì vậy mà Phật mở ra sự đặc cách túc số 5 vị truyền giới mà bản thể Tỷ-kheo của giới tử vẫn thành tựu.
Ngày nay, việc di chuyển từ trú xứ này đến trú xứ khác không còn thật sự khó khăn nữa, nhất là việc đi lại trong một đất nước thì vô cùng đơn giản, chỉ cần vài tiếng đồng hồ đi xe, hoặc vài tiếng đi máy bay, tàu lửa… thì đã đến địa phương cách xa vài ngàn cây số. Việc cầu thỉnh Tăng từ đó cũng dễ hơn rất nhiều. Cơ chế Tăng đoàn ở Việt Nam hiện nay được phân nhỏ đến cấp huyện, nhưng việc sinh hoạt theo trú xứ thì tập trung theo cấp tỉnh thành. Tức là việc tổ chức giới đàn, an cư, tự tứ… sẽ tập trung Tăng theo trú xứ của tỉnh, một tỉnh được hiểu như là một trú xứ của Tăng. Thế nhưng hiện nay, một số tỉnh thành vẫn áp dụng việc truyền giới với túc số Tăng là 5 vị, với lý do là vì tỉnh đó không đủ 10 vị Tỷ-kheo đủ tư cách làm “giới sư”, hoặc là Tăng ở đó không có đủ túc số 10 vị, thậm chí đó là những tỉnh thành “đô thị”. Chúng ta dễ dàng nhận thấy một nghịch lý ở đây, trong khi các buổi lễ hành chánh của Phật giáo tỉnh đó, dù xa xôi như thế nào thì ở những hàng ghế chứng minh vẫn trên 10 vị tôn túc, như vậy có nghĩa ở đó vẫn cầu thỉnh được Tăng từ trú xứ khác đến trú xứ của mình. Vậy thì sao trong việc truyền giới lại có lý do là trú xứ không đủ túc số Tăng 10 vị? Đây là một vấn đề cần được quan tâm.
Bàn rộng thêm vấn đề Túc số trong giới đàn. Hiện nay, các giới đàn ở Việt Nam thường có thêm các vị dẫn thỉnh và các vị giám đàn. Mục đích vị dẫn thỉnh là để hướng dẫn các giới tử lặp lại cách nói để tránh việc lộn xộn, các
vị giám đàn thì nhằm tạo thêm không khí trang nghiêm cho đàn tràng. Tuy nhiên cần phải hiểu những người này không nằm trong túc số Tăng truyền giới, dù Luật nói 10 vị là túc số tối thiểu, nhiều hơn cũng không trái luật. Giới trường truyền giới thường là Chánh điện của chùa. Nếu những vị này ngồi chung trong một giới trường, mà họ lại không được kể trong túc số truyền giới, tức không dự vào các pháp Yết-ma lúc đó, thì dẫn đến việc hình thành hai Bộ Tăng trong một giới trường, như vậy Yết-ma sẽ phi pháp vì có sự biệt chúng. Đây là một điểm tế nhị. Nhưng nếu để vị trí của họ bên ngoài giới trường, tức ngoài chánh điện thì việc dẫn thỉnh cũng sẽ gặp không ít khó khăn. Cho nên vấn đề sắp xếp vị trí của những vị này cũng cần phải được lưu tâm. Trường hợp nếu sắp xếp họ ngồi chung trong giới trường, thì các vị này phải ngồi yên một chỗ và phát tâm tùy hỉ, không được đứng hay qua lại, hay lộn xộn trong lúc Tăng Yết-ma.
Tóm lại, Tăng-già là mạng mạch của Phật Pháp, tức là sự tồn tại của Tăng chính là sinh mạng của Phật Pháp, bởi lẽ Tăng tồn tại thì chánh pháp của Phật giảng dạy còn có người tu chứng và hoằng truyền, do đó mà chánh pháp vẫn luôn được duy trì giữa thế gian. Tăng tồn tại chính là bản thể của Tăng được thành tựu. Bản thể Tăng được thành tựu chính là các vị Tỷ-kheo đắc giới như pháp. Để đắc giới như pháp thì ngoại trừ các vị Thánh giả vô học đã chứng đắc Thánh quả, số còn lại phải do Yết-ma như pháp. Để Yết-ma được như pháp thì phải hiểu và thông suốt Luật. Vì vậy, thọ giới, học giới, trì giới là bổn phận của một vị Tỷ-kheo cần phải được vẹn toàn. Chánh pháp thịnh hay suy, cũng do đây mà quyết định vậy.
[1] Đại tạng T1428 四分律. Xem thêm: Thích Đỗng Minh (dịch) (2010). Luật Tứ phần. Thích Nguyên Chứng, & Thích Đức Thắng (hiệu đính và chú thích). Nxb Phương Đông.
[2] Thích Trí Thủ (2011). Yết ma yếu chỉ. Thích Đỗng Minh, & Thích Tuệ Sỹ (đồng biên tập). Nxb. Phương Đông. Tr. 122
[3] Sđd. Tr. 127.
[4] Sđd, tr.139.
[5] Cách tính do-tuần, xem thêm: Hồ Đắc Túc (2021). Những bước chân ngắn dài. Nxb. Hồng Đức.
THÍCH CHƠN TRÍ