Phật giáo Đại thừa hưng khởi và tiền đề xuất hiện kinh điển Đại Thừa
Sau lần đại hội kết tập kinh điển lần thư bá (thế kỉ III TTL) ba tạng kinh điển gồm: Kinh – Luật – Luận đã được kiết tập với hai hệ Pali và Sankrit. Sự kiện từ Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ xuất hiện phân chia Bộ phái diễn ra với nhiều triết thuyết giải thích lời Phật dạy qua trước tác Luận tạng và văn học A-tỳ-đàm ra đời, thời kỳ Bộ phái có khoảng 18-20 bộ phái. Về sau các bộ phái lần lượt chuyển sang Phật giáo Đại thừa tạo ra làn sóng hưng khởi vào thể kỉ II TTL. Trong khi văn học A-tỳ-đàm được luận giải bởi các luận sư mang tính hàn lâm, nội hàm triết lý cao siêu người bình thường khó mà tiếp cận được. Thực tế, số đông dân chúng ở Ấn Độ chỉ quan tâm đến vấn đề diệt khổ bởi chế độ hà khắc của chế độ đẳng cấp của Ấn Độ lúc bấy giờ. Đại thừa đã tạo dựng hình ảnh Bồ Tát gắn liền với chất liệu từ bi, trí tuệ cứu giúp con người ra khỏi cảnh khổ. Và phát triển thuyết Tam thân gồm Pháp thân, Báo Thân và Ứng thân, trong đó Pháp thân chỉ tính thường trụ ở chúng sinh, Báo thân chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện trong đời và Hóa thân để chỉ cho hóa thân của chư Phật mười phương cùng khắp quốc độ. Hình ảnh lý tưởng Bồ Tát được xây dựng trong kinh điển Đại thừa và hiện thân trong cuộc sống như Bồ Tát Văn Thù, Quan thế Âm và cư sĩ Duy Ma Cật, phu nhân Thắng Man trong mình có tâm địa Bồ Tát có mặt giúp chung sinh thoát khổ được vui đạt tới cảnh giới trang nghiêm của chư Phật. Tinh thân tự lợi lợi tha qua lý tưởng Bồ Tát tu tập lục độ ba la mật cùng giúp nhau hướng đến Phật thừa, sẵn sàng hiến tạng giúp đỡ chúng sinh thể hiện yếu tố tha lực và niềm tin nơi Bồ tát giúp cho chúng sinh thoát khổ. Đại thừa mang màu sắc dễ tiếp nhận gần gũi qua việc đề xuất phương pháp tu tập phù hợp với mọi căn cơ mỗi người với cúu cánh đưa chúng sinh đến bờ giác ngộ. Nhờ đó Đại thừa du nhập đên đâu đều sử dụng phương tiện phù hợp với văn hóa sinh hoạt tín ngưỡng và hòa nhập bám rễ vào bản địa trở thành bộ phấn cấu tạo văn hóa bản địa.
Với sự phát triển của nền văn minh chữ viết nền văn học Phật điển xuất hiện và ảnh hưởng mạnh mẽ trong quần chúng. Cùng với sự truyền giáo mạnh mẽ và nhu cầu tâm linh đứa đến tư tưởng Phật giáo Đại thừa ra đời trên tinh thần phát triển tư tưởng của người đương thời từ sự ảnh hưởng trào lưu văn học Phật truyện như Jataka và Avadana đã nhân cách hóa đức Phật với siêu nhiên vừa từ bi giữa cuộc đời nhằm chuyển tải tư tưởng của đức Phật dưới một hình thức mới. Đại thừa với tinh thần cấp tiến uyển chuyển đã phát triển giáo lý Phật giáo và kế thừa kết hợp phát triển sáng tạo các thành tựu trước đó.
Đặc trưng của kinh điển Đại thừa là ngôn ngữ phương tiện đạt đến chân lý
Phật giáo Đại thừa là thời kỳ thứ ba của Phật giáo thời điểm xuất hiện các Phật nhập niết bàn khoảng 400 – 500 năm với ý nghĩa chuyển tiếp lan tỏa hiện thực hóa tư tưởng Phật giáo gắn liền với quần chúng mà lịch sự đương đại đặt ra và kinh điển Đại thừa là di sản truyền tải tư tưởng đó dưới mỗi quan điểm hình thức khác nhau. Ngôn ngữ của kinh điển Đại Thừa là ngôn ngữ biểu tượng, phủ định và điểm đặc trưng chân lý không nằm trong ngôn ngữ nhưng không thể lìa ngôn ngữ mà tìm chân lý. Đối với các tôn giáo đa thần, nhất thần như Islam giáo, Cơ đốc giáo kinh Thánh là chân lý do Thượng đế khai thị và việc thêm thắt sửa đổi sẽ bị trung phạt. Nhưng Phật giáo với tinh thần giải thoát thì ngôn ngữ chỉ là công cụ, phương tiện để đến chân lý và khi đạt đích điểm nên buông bỏ xuống như Đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ-kheo Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy…các ông cần hiểu ví dụ cái bè….chánh pháp còn bỏ đi, huống nữa là phi pháp”[1,tr162], trong kinh Viên giác: “Kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy mặt trăng thì biết rõ ngón tay rốt ráo không phải là mặt trăng”. Trên bình diện tổng thể ngôn ngữ và chân lý có mối quan hệ hữu cơ mật thiết. Dưới góc độ thế gian phạm trù ngôn ngữ chuyên chở các hữu ngã mà con người đang tìm kiếm. Theo Samel Johnson cho rằng: “ Ngôn ngữ là y phục của tư duy” đó là sản phẩm của tư duy đầy ngã tính. Nhà ngữ ý học Hayakawa lại nhận định: “ Văn tự dễ dẫn con người vào nhiều sai lầm” do con người chấp chặt ngôn ngữ là chân lý. Vởi bản chất vô ngã vô thủ của Phật giáo thì hết thảy kinh điển đều là phương tiện dẫn dắt chúng sinh đến chân lý mà thôi. Trong lịch sử Phật giáo có kinh Mi Tiên Vấn Đáp, Lục Tổ Đàn Kinh là “Ý Phật lời Tổ”. Kinh điển Đại thừa đa phần bảo lưu đầy đủ trong Hán tạng và các nước cũng đã dịch ra theo ngôn ngữ bản địa và được đọc tụng thông dụng, chứng tỏ một điều “chân lý có một nhưng phiên bản thì nhiều”.
Kinh điển Đại thừa với chức năng chuyển tiếp, chuyển tải lời Phật dạy dưới hình thức, cái nhìn mang tính đặc thù trên nền tảng kinh Nikaya và A Hàm.
Hệ kinh điển Đại thừa dựa trên căn nguyên lời Phật dạy được kết tập trong văn hệ Nikaya và A-hàm. Khảo sát hệ kinh điển này qua phương pháp văn bản về mặt kết cấu tất cả bài kinh đều có câu “như thị ngã văn” của ngài A-nan và đầy đủ lục chủng thành tựu, trong đó thính chúng tham dự gồm có các vị Bồ Tát, chư Thiên ở các cõi trời cho đến những loài phi nhân. Về mặt nội dung kinh điển Đại thừa phát triển các giáo lý nền tảng triển khai trên cơ sở “các pháp lấy Thể Tôn làm căn bản…làm đạo….làm chổ nương tựa” dưới một phương pháp, cái nhìn mới. Đứng trước phong trào tôn giáo diễn ra sôi nổi vào thế kỉ II TTL, tại Ấn Độ đòi hỏi Phật giáo phải khoác lên mình màu sắc tôn giáo lạ thì mới có sức đề kháng trước các tôn giáo khác. Kinh điển Đại thừa xuất hiện nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng thích ứng đối thoại với trào lưu triết học tôn giáo đương thời và duy trì sự tồn hưng của Phật giáo.
Dưới góc nhìn lịch sử các kinh điển Đại Thừa xuất hiện từ thể kỉ I TTL đến thể kỉ II STL như kinh Đại Bát nhã, Hoa nghiêm, Lăng nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Thắng Mạn,… được bổ sung chắc chắc lọc qua nhiều giai đoạn, có ban biên tập thẩm định vì thế các kinh thuộc về công trình tập thể chứ không thuộc về bất kì cá nhân nào. Kinh điển Đại thừa xuất phát từ những lời Phật thuyết, bên cạnh đó còn mởi rộng lời đức Phật dạy ở ba thời và không phải riêng đức Phật Thích Ca Mâu Ni có cả mười phương chư Phật, vô lượng Phật. Tư tưởng tánh không, Trung đạo duyên khởi, Như lai tạng,… được các Luận sư Đại Thừa phát triển đến đỉnh cao dựa trên nền tảng kinh điển Đại Thừa.
Tóm lại, di sản kinh điển Đại Thừa xuất hiện nhằm phát triển và hệ thống hóa tư tưởng Phật giáo trên nền tảng giáo lý cơ bản được kiết tập trong văn hệ A-hàm và Nikaya thể hiện qua mỗi bộ kinh đều đề cập chuyển tải những tư tưởng đặc thù. Lịch sử các nước Trung Á và Đông Á đã từng xem các kinh là quốc bảo như kinh Đại Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Nghiêm. Các nhà Đại Thừa có câu:“Y kinh giải nghĩa ba đời Phật oan, rời kinh một chữ tức đồng ma thuyết” với ý nghĩa kinh điển là phương tiện để thể nhập Niết-bàn hàm chứa trong thuật ngữ Đại Thừa “cỗ xe lớn đưa chúng sanh giác ngộ thành tựu Phật đạo”. Vì vậy, kinh điển Đại Thừa xuất hiện không ngoài mục đích đó và là một bộ phận trong tổng thể kinh điển Phật giáo.
Thích Tâm Thắng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Thích Minh Châu dịch (2020), Kinh Trung Bộ, VNCPVN, Nxb. Hồng Đức. [2] Thích Minh Châu dịch (2015), Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa, Nxb. Tôn Giáo. [3] Ban giáo dục Tăng ni Trung Ương (2016), Đại cương văn điển Phật giáo, Nxb. Phương Đông. [4] Viên Trí (2006), Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược, Nxb. Phương Đông.