Theo luật Tứ phần[1] duyên khởi của Ðức Phật qui định mùa an cư của chúng tỳ kheo xảy ra khi Ngài đang trú tại Xá Vệ, trong vườn của Ông Cấp Cô Ðộc. Nguyên do của việc chế định này là bởi vì sự than phiền của các người cư sĩ đối với nhóm 6 tỳ kheo. Nhóm 6 tỳ kheo này thường du hành trong dân gian bất cứ vào mùa nào. Khi mùa mưa đến, họ dẫm đạp chết vô số côn trùng. Các cư sĩ than phiền rằng những tu sĩ ngoài đạo hằng năm vẫn có 3 tháng cố định tại một chỗ, ngay đến các loại cầm thú vẫn còn có mùa trú ẩn của chúng, huống chi những người Sa môn Thích tử lại không biết nghỉ chân vào mùa mưa, trái lại du hành bất cứ mùa nào. Ðức Phật hay biết sự này, và Ngài đã khiển trách nhóm tỳ kheo 6 người ấy.

Ở đây, chúng ta có thể rút ra hai nhận xét. Thứ nhất sự than phiền của các cư sĩ chứng tỏ rằng an cư mùa mưa đã trở thành tục lệ chung cho mọi tu sĩ của các giáo phái tôn giáo thời bấy giờ. Các tỳ kheo do bởi không chấp hành tục lệ này nên bị các cư sĩ chỉ trích. Thứ hai, sự khiển trách của Ðức Phật chứng tỏ rằng mặc dù trước đó Ngài chưa qui định việc an cư mùa mưa, nhưng các thánh tăng hay các tỳ kheo sống tri túc và trì luật nghiêm chỉnh đều không đi lang thang trong các tháng mùa mưa. Như vậy, sự ấn định ba tháng an cư mùa mưa của Phật là hợp pháp hóa một thông lệ hay một tập tục đã được chấp hành một cách tự nhiên giữ các tỳ kheo nói riêng, và cũng chung cho mọi tu sĩ của các giáo phái ngoài đạo Phật đương thời.

Tuy nhiên, xét theo thực tế, hành trì của giáo đoàn tăng lữ về việc an cư mùa mưa, thì sự an cư này không chỉ giới hạn bởi sự việc đi lại gây tổn hại cho các sâu bọ và các thứ cây cỏ sinh trưởng nhiều trong mùa mưa. Tham khảo thêm trong các kinh điển, chúng ta sẽ thấy việc an cư còn có những mục đích khác hơn thế nữa.

Trước hết, một đoạn ngắn trong kinh Ðiển Tôn[2] có ghi sự kiện như vầy. Ðức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ. Trong một tiền kiếp xa xưa, lúc đức Thích Tôn còn hành Bồ Tát đạo. Bấy giờ ngài thọ anh làm vị đại thần có tên là Ðiển Tôn. Vị đại thần này được mọi người tôn kính, cho rằng là đã từng thấy Phạm Thiên. Nhưng thực tế thì Ðiển Tôn chưa từng thấy Phạm Thiên. Ðiển Tôn tự suy nghĩ rằng, theo truyền thuyết các bậc tôn túc nói lại, nếu ai tu tập 4 vô lượng tâm trong suốt 4 tháng mùa mưa sẽ được diện kiến với Phạm Thiên. Do vậy, đại thần Ðiển Tôn xin phép nhà vua được nghỉ ngơi để có thể tu tập 4 vô lượng tâm trong suốt 4 tháng mùa mưa. Sau 4 tháng, quả nhiên Ðiển Tôn được hội kiến với hình đồng Phạm Thiên, và được Phạm Thiên đích thân giảng giải đạo lý cho.

Câu chuyện kể như vậy chứng tỏ việc an cư cố định tại một chỗ để tụ tập vào mùa mưa là một quan niệm đã có từ xưa, trước thời Ðức Thích Tôn rất lâu xa. Cho nên, việc an cư, hạn chế sự đi lại trong mùa mưa, không chỉ vì tránh dẫm đạp vào côn trùng và cây cỏ, mà mùa mưa còn được quan niệm từ xa xưa là thời gian thích hợp nhất cho sự tu tập để có những tiến bộ tâm linh đáng kể. Chính do điều này mà kinh Chánh pháp niệm xứ nói rằng vào thời kỳ an cư mùa mưa các tỳ kheo ngoại trừ các việc đi lại và tiểu tiện, còn lại thường xuyên phải ngồi kiết già tại một chỗ để tu tập thiền định[3].

Ngoài ra, sự an cư mùa mưa còn có một ý nghĩa quan trọng khác nữa. Ðó là biểu hiện cho tinh thần sống chung hòa hợp của cộng đồng Tăng lữ tại một trú xứ. Ðiều này được thấy rõ trong luật Tứ phần[4]. Lúc bấy giờ Ðức Thích Tôn trú lại Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc. Sau 3 tháng an cư mùa mưa, một số đông các tỳ kheo ở Câu Tát La đến hầu thăm Ngài. Ðức Thế Tôn theo thông lệ hỏi thăm đời sống của họ như thế nào trong ba tháng an cư. Họ trình bày với Ngài sinh hoạt thường nhật của họ. Theo đó, các tỳ kheo này giao ước với nhau trong suốt mùa an cư rằng không ai nói chuyện với ai bất cứ điều gì. Nếu có những việc cần thiết mà người nầy cần đến sự giúp đỡ của người khác thì chỉ được phép ra dấu chứ không được phép nói. Sinh hoạt này cũng thường xảy ra giữa các nhóm tỳ kheo và được biết nhiều nhất là nhóm 3 tỳ kheo dòng họ Thích gồm Tôn Giả – A Na Luật – tôn giả Nan Ðề – và tôn giả Kim Tỳ La. Các tỳ kheo khi thì ở Bát Na Nạn Xà[5], khi thì ở Sa Kê Ðế[6] và luôn luôn được Phật khen ngợi. Nhưng trong trường hợp các tỳ kheo ở Câu Tát La này, thay vì được khen ngợi, đã bị Ðức Thế Tôn khiển trách. Ngài nói các tỳ kheo này là những người ngu si, sống chung như vậy là khổ nhưng lại tưởng là an lạc, chẳng khác nào những kẻ thù cùng sống trong một trú xứ. Nhiệm vụ của các tỳ kheo sống chung là phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nhau, chứ không thể sống như những người câm với nhau.

Cùng một lề lối sinh hoạt, nhưng có trường hợp Phật khen ngợi, có trường hợp bị Ngài khiển trách, ấy là thế nào? Ðức Phật luôn luôn ca ngợi đời sống trầm lặng của các tỳ kheo, sống xa lánh những nơi ồn ào náo nhiệt. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa rằng một tỳ kheo nên sống cách biệt ngoài cộng đồng Tăng lữ. Sống chung và hòa hợp trong cuộc sống thánh thiện cao cả, giáo giới và sách tấn lẫn nhau, đó là sinh mệnh của Tăng đoàn. Ðời sống của một tỳ kheo là sống không gia đình không cố định vĩnh viễn tại một trú xứ nào, nhưng các tỳ kheo được nối kết nhau thành một cộng đồng thống nhất bằng giới bổn mà họ phải cùng nhau hòa hiệp để tụng đọc trong mỗi nửa tháng. Và sự hòa hiệp ấy được củng cố bằng ba tháng an cư vào mùa mưa.

Như vậy, an cư mùa mưa không phải đơn giản chỉ có nghĩa là hạn chế sự đi lại của các tỳ kheo để tránh tổn thương các sinh vật bé nhỏ và các thứ cây cỏ non. Trong lịch sử phát triển của đạo Phật sinh hoạt an cư kiết hạ là một nhân tố tích cực để các đệ tử tại gia có điều kiện thuận tiện tham gia vào sự nghiệp củng cố và phát triển giáo đoàn tăng lữ. Tăng đoàn thanh tịnh và hòa hiệp là tiêu biểu của sức sống cụ thể của giáo pháp mà Ðức Thích Tôn đã từng giảng dạy. Ðó cũng là nơi nương tựa tinh thần vững chắc, và là niềm tin chân chính cho những người tại gia sống giữa cuộc đời hỗn tạp, đầy những hận thù và tranh chấp.

Một Phật tử tại gia, có niềm tin thuần tịnh trong sáng đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới luôn luôn được ghi nhận với 4 đức tính:

  • Thân cận thiện sĩ,
  • Học hỏi Chánh pháp,
  • Suy nghĩ sâu sắc những điều mới học hỏi, và
  • Hành trì những điều đã được chiêm nghiệm.

Trong 4 đức tính ấy, đức tính thứ nhất, thân cận thiện sĩ , tức gần gũi các bậc thiện tri thức, những bậc đạo cao đức trọng. Mỗi năm, vào mùa mưa, khi các tỳ kheo tạm thời dừng chân tại một trú xứ, thì đây là thời gian mà những người tại gia có điều kiện thích hợp nhất để thường xuyên gần gũi các bậc thiện sĩ học hỏi chánh pháp. Do thế, họ có thể phát huy các đức tính đặc trưng của một Phật tử tại gia có niềm tin thuần tịnh đối với Chánh pháp.

Trong thời gian đức Thế Tôn còn tại thế, các Phật tử tại gia hoặc tự lực cá nhân nếu có đủ điều kiện, hoặc những người thân thuộc nhau hoặc những người cùng sống trong một làng, một thành phố, hợp tác nhau thỉnh các tỳ kheo về tại trú xứ của mình an cư kiết hạ, và hỗ trợ các tỳ kheo các nhu cầu cần thiết để các Ngài có điều kiện thuận tiện cho sự tu tập suốt trong ba tháng mùa mưa. Các truyện ký của Phật giáo thuộc các nền văn học bảng sanh và bảng duyên thường ghi nhận có nhiều tỳ kheo đã chứng đắc quả A La Hán trong thời gian an cư này, nhờ sự hỗ trợ của các cư sĩ về các nhu cầu hằng ngày.

Một cộng đồng thanh tịnh và hòa hiệp, cùng học và cùng tu như sữa với nước vậy, quả là niềm tin và hy vọng cho con người sống giữa cảnh đời náo nhiệt, và nó chứng tỏ rằng Chánh pháp mà Ðức Thích Tôn đã giảng thuyết, nếu được thực hành một cách trọn vẹn, sẽ là cơ sở cho một thế giới an lành. Ðây là điều mà vua Ba Tư Nặc đã bày tỏ với đức Thế Tôn về niềm tin của mình đối với Chánh pháp được Thế Tôn giảng dạy và chúng đệ tử thực hành trọn vẹn[7].

Nói tóm lại, duyên khởi của sự an cư kiết hạ, của chúng tỳ kheo dù đơn giản được nói là do Ðức Thế Tôn tùy thuận theo ước muốn của các đệ tử tại gia, nhưng trong ý nghĩa sâu xa thì nó là sinh mạng tồn tại của chánh pháp được duy trì bằng đời sống thanh tịnh và hòa hiệp của cộng đồng Tăng lữ. Chừng nào chúng tỳ kheo còn nhiệt thành trong phận sự an cư 3 tháng thì bấy giờ chánh pháp vẫn còn là sức sống phong phú để loài người làm nơi quy ngưỡng và xây dựng một thế giới an lành.

Thích Trí Thủ


[1] Tứ phần luật 37, An cư ký đệ (Ðại 22, tr. 630b)
[2] Trường A Hàm 5 (Ðại 1, tr. 32b)
[3] Dẫn bởi Tứ phần luật san phiền bổ khuyết hành sự sao, Thượng 4 (Ðại 40, tr. 58a)
[4] Tứ phần luật 37, Tự Tứ Kiền Ðộ (Ðại 22, tr. 637c)
[5] Trung A Hàm 17, Trường Thọ Vương Bản Khởi (Ðại 1, tr. 536a)
[6] Trung A Hàm 18, Sa Kê Ðế Tam Mộc Tánh Từ (Ðại 1, tr. 544b)
[7] Trung A Hàm 59, Kinh Pháp Trang Nghiêm (Ðại 1, tr. 795b)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

So Sánh Trung Đạo Và Trung Quán
Luận, Phật học

Sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già Uruvela, một địa danh gần Bodh Gaya ngày nay, thân thể Đức Phật tiều tụy đến mức người ta tưởng Ngài đã chết. Ngài từng chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo mỗi ngày, ngồi thiền giữa giá lạnh, không tắm rửa, không nói chuyện. Ngài hy vọng bằng cách hành hạ thân xác, sẽ đạt được giác ngộ....

Ý nghĩa bát cơm quả trứng đặt đầu giường người mất trong tang lễ Việt Nam
Kiến thức

Trong dòng chảy văn hóa tâm linh của người Việt, mỗi phong tục trong tang lễ đều ẩn chứa những tầng ý nghĩa sâu xa về đạo hiếu, lòng tri ân và quan niệm về sinh tử. Trong đó, hình ảnh bát cơm, quả trứng và đôi đũa đặt đầu giường người mất là một...

Tu tập Bốn như ý túc
Kinh, Phật học

Đức Phật không dạy đệ tử mù quáng tin, ngay cả các tầng định khi thiền, mà luôn yêu cầu tự quán sát, tự chứng nghiệm, tránh rơi vào cực đoan tín ngưỡng. Phần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung Chuyển “Có bốn như ý túc...

Lễ tế đồ trung là gì? Nghi thức ngã ba đường trong thọ mai gia lễ
Kiến thức

Thư Viện Phật Quang xin giới thiệu đến quý độc giả một nghi thức đặc biệt trong phong tục tang lễ truyền thống của người Việt: Lễ Tế Đồ Trung. Đây là một phần quan trọng trong Thọ Mai Gia Lễ – bộ sách cổ nổi tiếng về gia lễ Việt Nam, được lưu truyền...

Lục Độ Ba La Mật là gì? Nguồn gốc và ý nghĩa của Lục Độ Ba La Mật
Kiến thức

Trong giáo lý Phật giáo Đại thừa, “Lục Độ” hay “Lục Ba La Mật” được xem là pháp môn cốt lõi trên con đường tu tập của hàng Bồ-tát. Thuật ngữ “Ba La Mật” dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn” – tức là phương pháp giúp hành giả vượt từ bờ mê sang bờ giác,...

Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận
Luận, Phật học

Qua Trung Quán Luận của Long Thọ giới thiệu rõ, sự ra đời, văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết học tư tưởng Trung đạo, kết cấu của Trung Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song cách phân chia kết cấu có khác nhau… Long Thọ (Nagarjuna)...

Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ dâng y Kathina trong Phật giáo Nam tông
Kiến thức

Trong Phật giáo Nam tông, lễ dâng y Kathina là một trong những nghi lễ quan trọng nhất. Đây không chỉ là dịp để Phật tử thể hiện lòng thành kính và hộ trì Tam Bảo mà còn là một truyền thống được duy trì liên tục từ thời Đức Phật. Lễ hội được tổ...

Phật thuyết nhất thiết Như Lai danh hiệu Đà La ni kinh
Kinh, Phật học

Hán dịch: Pháp Hiền Đại Sư phụng chiếu dịch Việt dịch: Cư sĩ Nguyện Huy dịch sang Việt văn Hòa thượng Thích Như Điển chứng nghĩa Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại Pháp dã đại Bồ Đề Đạo tràng ở nước Ma Già Đà. Khi vừa thành Chánh giác, có các chúng Bồ...

Tìm hiểu 10 Đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát
Kiến thức

Trong kinh điển Phật giáo, Phổ Hiền Bồ Tát là một trong Tứ Đại Bồ Tát nổi danh, đại diện cho hạnh nguyện và hành động. Nếu Văn Thù Bồ Tát là biểu tượng của trí tuệ thì Phổ Hiền Bồ Tát chính là hiện thân của sự thực hành, của những lời thệ nguyện...

Phật thuyết kinh ‘Làm con năm người Mẹ’
Kinh, Phật học

Dẫn nhập “Một vật sinh ra, cái gì đích thân cho nó cường lực, đó gọi là Nhân; cái gì thêm thắt nhược lực vào thì gọi là Duyên” Phải chăng Đại tạng kinh Nam (cảo bản) lâu nay khép mình chùa Long Sơn Nha Trang, từ khi Hòa thượng Đỗng Minh thuận thế vô...

Mười hai loại cô hồn trong khoa nghi Chẩn tế cô hồn của Phật giáo
Kiến thức

Chẩn tế cô hồn là một nghi thức mang đậm tinh thần từ bi của Phật giáo, nhằm cứu độ và an ủi những vong linh vất vưởng. Bài viết sẽ giới thiệu chi tiết về mười hai loại cô hồn trong khoa nghi này. Trong quan niệm Phật giáo, tháng Bảy Âm lịch là...

Mông sơn thí thực: Nguồn gốc, ý nghĩa và công đức
Kiến thức

Mông Sơn Thí Thực là nghi thức Phật giáo thể hiện lòng từ bi, hướng đến việc trợ duyên cho các vong linh chưa siêu thoát được an ổn và tiếp nhận ánh sáng giác ngộ, góp phần nuôi dưỡng tâm thiện lành nơi người thực hành. Nguồn gốc của Mông sơn Thí thực Trong...

Câu chuyện về nghi thức “Bông hồng cài áo” mỗi mùa Vu Lan
Kiến thức

Nghi thức “Bông hồng cài áo” khởi nguồn từ một đoản văn đầy xúc động về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh từ hơn 60 năm trước. Nguồn gốc nghi thức “Bông hồng cài áo”  Vào những năm 1960, nghi thức bông hồng cài áo trong ngày lễ Vu Lan được thiền sư Thích...

Cấp Cô Độc: Biểu tượng tối thượng của từ bi và hạnh cúng dường
Kiến thức

Cấp Cô Độc không chỉ là hình ảnh một vị trưởng giả giàu lòng từ bi và cúng dường vô điều kiện, mà còn là biểu tượng sống động của tinh thần sẻ chia trong Phật giáo. Câu chuyện đời ông không chỉ là huyền thoại, mà còn là bài học sâu sắc về nhân...

Làm Sao Để Trở Thành Một “Mục Kiền Liên” Trong Đời Sống Hằng Ngày?
Kiến thức

Tôn giả Mục Kiền Liên không chỉ là bậc thần thông đệ nhất, mà còn là biểu tượng thiêng liêng của đạo hiếu nhắc nhở chúng ta sống biết ơn, yêu thương và phụng dưỡng cha mẹ khi còn có thể Tôn giả Mục Kiền Liên là ai? Tôn giả Mục Kiền Liên (tiếng Phạn:...

Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên
Luật, Phật học

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.