Khi một tu sĩ không giữ mình, không có giới hạnh, lại dùng tà thuyết chiêu dụ mê hoặc, thì không còn tư cách làm thầy làm sư, thậm chí còn thấp hơn người thế tục; khi đó họ nhận nhân quả – bị phỉ báng cũng là tất yếu.

“Sa môn bất kính vương giả” là một luận điểm quan trọng trong “Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên – Huế”(1) của thầy Tuệ Sỹ. Đại ý rằng người xuất gia thì không cúi đầu trước vương gia hầu tước.

Nói cách khác, người xuất gia không thể bị chi phối bởi quyền lực, không phải hạ mình với bất cứ ai, mà trái lại phải hướng đến tâm thái tịch tĩnh, rỗng lặng như hư không.

Kỳ thực, luận điểm này bắt nguồn từ Đại sư Tuệ Viễn(2) khi ông viết tác phẩm “Sa môn bất kính vương giả luận” (沙 門 不 敬王 者 論)(3) để trả lời cho triều đình, trước sức ép của nhà cầm quyền đòi hỏi hàng Sa môn phải lễ bái quốc vương. Trong đó Đại sư đã nêu rõ: “Lý do tại sao giới Sa môn không cần phải lễ kính hàng vương hầu”, điều này đã bác lại “thái độ hống hách cửa quyền của giới quan lại đương thời buộc tăng sĩ Phật giáo phải lễ lạy họ”(4).

Ngoài ra, ông còn nhấn mạnh rằng đời sống sinh hoạt của người xuất gia khác xa và siêu việt hơn mọi sinh hoạt của đời sống thế tục. Đặc biệt ông cho rằng “người thể nhận được Phật pháp không nên tùy thuận thế tục”.(5)

Tâm thái “Sa môn bất kính vương giả”, một lần nữa, được biểu hiện qua câu chuyện của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma(6) khi ông có cuộc hội kiến với Lương Vũ Đế vào năm 527.

Lúc nhà vua bộc lộ trăn trở: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?”

Đạt Ma đáp: “Không có công đức.”

– “Tại sao không công đức?”

– “Bởi vì những việc vua làm là nhân ‘hữu lậu’, chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật.”

– “Vậy công đức chân thật là gì?” Sư đáp: “Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được.

Vua lại hỏi: “Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?”

– “Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh.”

– “Ai đang đối diện với trẫm đây?”

– “Không biết.”(7)

Rõ ràng, nếu như sợ phật lòng nhà vua thì Tổ Đạt Ma đã nói khác, chứ không như tát nước vào mặt vua vậy. Tất nhiên, ở đây ông hoàn toàn nói theo pháp, nói dựa trên sự liễu ngộ của chính mình. Đây rõ là tinh thần của Sa môn, không động trước hoàn cảnh, không khiếp nhược trước bất cứ ai. Và khi đã là “hư không” thì hoàn toàn rỗng lặng, không còn những cử chỉ chớp mắt, cúi đầu trước phàm phu như những con người thế tục.

Cần minh định rằng tâm thái “bất kính vương giả” không đồng nghĩa với thái độ coi thường, thiếu tôn trọng với bậc vương hầu (rộng ra là những nhà cầm quyền), mà là thái độ đúng mực, vẫn giữ được mình mà không gây phiền người. Tức người tu không đánh mất đi phẩm hạnh, cốt cách; giữ gìn đúng giới luật, phòng hộ được sáu căn; đồng thời không tạo ra những ác nghiệp, gây bức xúc phiền não cho người khác. Nếu có những nghiệp bất thiện, chỉ bởi người thế tục chưa chế ngự được tham sân si ở họ mà thôi.

Nhưng làm thế nào để giới tăng lữ trong một đất nước lại có thể đứng ngoài sự quản lí của nhà nước?

Điều này hẳn nhiên là không thể. Tôn giáo là một thành tố quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của một hình thái nhà nước. Từ xưa tới nay, ở bất cứ nơi đâu, tôn giáo với tổ chức của nó luôn chịu sự quản lí, điều hành bởi một thiết chế nhất định. Nếu không, một tổ chức tôn giáo trong nhà nước ngay lập tức sẽ có vai trò như một nhà nước, xa hơn sẽ li khai thành một nhà nước độc lập.

Cái hay là, đạo Phật với những tính chất đặc thù, đặc biệt, lối sống viễn ly, người tu sĩ phải tách khỏi những sinh hoạt của đời sống thế tục mới có thể dễ đạt đến sự giải thoát. Đó là lí do họ phải xuất gia, sống đời sống không gia đình, du hoá khất thực, và hành trì thiền định. Hiểu rõ những điều này, những bậc minh quân mộ đạo hay một số thiết chế ưu việt đã trao cho giới tăng lữ trong đất nước có những quy chế riêng biệt cốt thể hiện sự tôn kính với Tam bảo, đồng thời tạo điều kiện cho tăng chúng giảm những phiền não từ các hoạt động thế tục, để họ có thể toàn tâm đi trên con đường cầu đạo, giải thoát.

Như trong lịch sử nước ta, thời Trần, năm 1308, sau khi Thiền sư Pháp Loa được Điều ngự Trần Nhân Tông trao chức trụ trì chùa Siêu Loại và được chọn là vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm, vua Trần Anh Tông đã sai Trung thư Thị lang Vương Công Trứ cấp độ điệp cho Pháp Loa, tức xác nhận ông trở thành người nối dòng chính thống của thiền phái và không phải bị ràng buộc bởi luật pháp thế tục.(8)

Như vậy, việc trao quy chế đặc biệt cho tu sĩ đạo Phật trong tình huống này hoàn toàn phụ thuộc vào sự anh minh của người đứng đầu nhà nước và cách nhìn trí tuệ của một triều đại.

Tuy không thể đứng ngoài sự cai quản của nhà nước, nhưng bổn phận của giới tăng lữ cần có ý thức gìn giữ môn quy và giới luật. Nếu không duy trì tốt việc này thì đồng nghĩa họ đã đi chệch khỏi tinh thần của Phật giáo. Vì sao như vậy? Vì giới luật nhà Phật không giống như những quy định của pháp luật trong một thiết chế nhà nước. Nó được đức Thế Tôn vạch ra, giúp người tu thực hành để đoạn diệt tham sân si, để gìn giữ sáu căn thanh tịnh, để tâm không còn bị mắc kẹt bởi thân xác… Do vậy, nếu có điểm chung giữa giới luật và pháp luật thì đó chỉ là tính tuân thủ và bình đẳng; còn bản chất và mục đích thì hoàn toàn khác xa, không có bất kì mối liên quan nào.

Có thể nói, chính giới luật là cái ổn định và bền vững nhất để duy trì, kết nối toàn bộ tu sĩ Phật giáo trong suốt 2600 năm, cho dù họ có theo tông phái nào hay những quan điểm giáo lý nhiều chỗ còn hiểu khác nhau. Nó cũng giúp nhận diện, phân biệt giữa tu sĩ đạo Phật với tu sĩ của những tôn giáo khác. Thực tế, kinh Phật dễ khiến tu sĩ, phật tử có nhiều cách hiểu không thống nhất, thậm chí suy diễn sai lệch. Duy chỉ có giới luật là tưởng minh và không dễ để một cá nhân nào có đủ thẩm quyền thay đổi. Chỉ có điều là, người tu có thực hiện đầy đủ các giới đã quy định theo đúng thứ cấp tu hành hay không, hay chỉ nói một đằng làm một nẻo, danh thực bất tương.

Vậy nên, khi một tu sĩ không giữ mình, không có giới hạnh, lại dùng tà thuyết chiêu dụ mê hoặc, thì không còn tư cách làm thầy làm sư, thậm chí còn thấp hơn người thế tục; khi đó họ nhận nhân quả – bị phỉ báng cũng là tất yếu. Còn khi một tổ chức Phật giáo không lấy giới luật làm trọng, không áp giới luật một cách nghiêm khắc, thì trong tăng chúng sẽ xuất hiện rất nhiều phàm tăng, ma tăng, và khi đó hẳn tăng già không còn uy tín, đánh mất đi niềm tin, sự tôn kính của đại chúng phật tử. Đồng thời khi một tổ chức Phật giáo bị chi phối, can thiệp quá sâu bởi nhà nước thì họ sẽ dần rời xa tinh thần cốt lõi của đạo Phật, giới luật bị làm lung lay suy yếu, và cuối cùng chức năng thực hành tôn giáo của tổ chức ấy cũng không còn, mà thay vào đó – thực thi chính trị.

Tác giả: Giảng viên Nguyễn Thanh Huy
Trường Đại học Khánh Hòa
Tạp chí Nghiên cứu Phật học Số tháng 11/2024


CHÚ THÍCH:
[1] Thư viết ngày 28/10/2003 (PL. 2547).
[2] Tuệ Viễn (慧遠) hay Huệ Viễn, (334 ~ 416), là một Cao tăng sống vào đời nhà Tấn, Trung Hoa.
[3] Gọi tắt là “Bất kính vương giả luận” (不 敬王 者 論). Tác phẩm, 1 quyển, được viết vào đời Đông Tấn, ghi vào “Hoằng minh tập”, quyển 5, trong Đại chính tạng, tập 52.
[4], [5] Trích từ Từ điển Phật học Online (Giáo hội PGVN).
[6] Bồ-đề-đạt-ma (bodhidharma, 菩提達磨), là người Ấn Độ, (~470 – 543). Ông được coi là người truyền bá và sáng lập ra thiền học và võ thuật tới Trung Hoa.
[7] Trích từ Wikipedia.
[8] Thích Phước Sơn (1995),”Vị tổ sư thứ hai của phái Trúc Lâm (được đặc phong Phổ Tuệ Minh Giác Tịnh Trí Đại Tôn Giả”, Phần hai.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Tư tưởng Long Thọ trùng phùng trên nẻo đường quê hương
Phật học

(TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ THÍCH TUỆ SỸ) Thầy sinh ra và lớn lên tại thành phố Paksé, tỉnh Champasak, Lào; năm chín tuổi được phụ mẫu gửi vào ngôi chùa làng gần nhà (chùa Trang Nghiêm) hành điệu. Thiên bẩm thông minh, học đâu nhớ đó, điều này khiến cho thân mẫu lo sợ, liên...

Ý nghĩa phương tiện và cứu cánh qua phẩm Tín giải trong Kinh Pháp Hoa
Kinh, Phật học

Kinh Pháp Hoa gửi thông điệp: Ai cũng sẽ thành Phật. Các tôn giáo khác không bao giờ nói tín đồ bằng giáo chủ, đây là điểm khác biệt trong Phật giáo. Tóm tắt phẩm Tín giải Sau khi nghe về pháp Phương tiện và được đức Phật khai mở về Nhất thừa giáo, đặc...

Nghiên cứu triết lý kinh Pháp Hoa qua Phẩm Tựa
Kinh, Phật học

Sự ra đời của kinh Pháp Hoa chính là để hòa giải, thống lĩnh, điều hòa và hợp nhất các tông phái nên tạo ra nhất thừa. 1. Bối cảnh lịch sử ra đời kinh Pháp Hoa 1.1. Bối cảnh lịch sử Những diễn biến về mặt Tôn giáo Sau Phật Niết-bàn khoảng một trăm...

Lược Khảo Về Tư Tưởng Niệm Phật
Luận, Phật học

Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di đà là tính sáng soi, Mựa phải nhọc nhằn tìm về Cực Lạc.[1] I. DẪN KHỞI “Lúc Ta mới ngồi nơi đạo tràng, dưới cội Bồ-đề, quán sát và đi kinh hành, trong hai mươi mốt ngày, suy nghĩ như vầy: Trí tuệ mà Ta đã đạt được thật là vi diệu đệ nhất. Chúng sanh các căn ám độn, đắm...

Kinh Kiến Chánh – Thích Nguyên Hiền dịch
Kinh, Phật học

NHÂN DUYÊN DỊCH KINH KIẾN CHÁNH Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Từ lúc xuất gia, ngay cả nhiều năm được diễm phúc tiếp xúc với Đại tạng kinh, tôi vẫn chưa bao giờ nghe đến tên kinh Kiến Chánh. Năm Quý Mùi (2003), tôi may mắn được về hầu Thầy nhập thất. Một...

Đại ý Kinh Lăng Già
Kinh, Phật học

108 nghĩa đúng với thực tướng như xa rời thế gian. 39 môn phái ý kiến giải, mà tuyên truyền chính pháp. Hiểu rõ danh và tướng đều là giả trá bởi mê vọng thường ấp ủ, dựa chính trí để hiểu chân như giác ngộ lý duyên khởi mà quy chân lý màu nhiệm....

Bát Nhã Ba La Mật Đa
Kinh, Phật học

Wikipedia: Bát-nhã-ba-la-mật-đa (zh. 般若波羅蜜多, sa. prajñāpāramitā, en. perfection of wisdom/insight, de. Vollkommenheit der Weisheit/Einsicht/Erkenntnis) có nghĩa là sự toàn hảo (sa. pāramitā, en. perfection) của Bát-nhã (sa. prajñā). Cũng được gọi ngắn là Bát-nhã-ba-la-mật. Danh từ nguyên thủy Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ (zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia. Tuy không hoàn...

Từ nguyên và hình thức sám hối của người xuất gia
Luật, Phật học

1. GIẢI THÍCH TỪ NGUYÊN: Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ:...

Vai trò của giới luật trong nếp sống thiền môn
Luật, Phật học

Trong tam tạng kinh điển thì luật tạng (vinaya) có một vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Theo thứ tự sắp xếp thông thường thì tam tạng bao giờ cũng được sắp xếp tuần tự từ kinh, luật và luận. Nhưng theo văn học Pāli, luật tạng được xếp đầu tiên sau đó đến kinh và luận. Điều này cho thấy rằng, luật tạng luôn được đặt trọng tâm trong nếp sống tu học của tứ...

Tìm hiểu Thành Thật Luận
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Đức Phật Thích ca Mâu ni, ngay khi còn thị hiện là Thái tử Tất đạt đa đã vì cảm thấu nỗi thống khổ miên trường của kiếp nhân sinh mà xuất gia. Sau khi thành đạo, Ngài đi khắp nơi trong cõi Ấn độ mà thuyết kinh giảng pháp, khai hóa...

Luận khơi dậy đức tin Đại thừa
Luận, Phật học

LUẬN KHƠI DẬY ĐỨC TIN ĐẠI THỪA Nguyên tác: Bồ-tát Mã Minh Hán dịch: Tam tạng pháp sư Chân Đế, người Tây Ấn Độ, dịch vào đời nhà Lương Việt dịch: Sa-môn Nguyên Hùng LỜI BẠT  I. Tác giả Mã Minh (Aśvaghosa, 馬鳴, 100-160), người Trung thiên trúc, vốn xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành Sa-chi-đa, nước Xá-vệ. Thời đại...

Nghĩ về tánh Không
Luận, Phật học

Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau. Nhưng trong Phật giáo, cả hai đều...

Tâm Lý Học Phật Giáo
Luận, Phật học

TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO Thích Chơn Thiện A. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT I. Về tâm lý học phương Tây 1. Các định nghĩa: Các dịnh nghĩa tâm lý học trước thế kỷ XX (tiêu biểu): a. Wilhelm Wundt (1832 – 1920), người Đức: Wundt là nhà sáng lập phòng thực nghiệm về tâm lý đầu tiên gọi là Psychological laboratory (1879), định nghĩa: “Tôi thiết...

Nghiệp Và Các Loại Nghiệp | U Silannanda – Khánh Hỷ dịch
Luận, Phật học

Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo; bởi vì luật Nghiệp Báo đã giải thích cho họ thấy rõ lý do của sự bất đồng của các cá nhân trong xã hội con người, đồng thời cũng giải thích cho họ biết tại sao những người rất tốt trên cõi đời này lại...

Quá trình hình thành giới luật
Luật, Phật học

Những quy tắc đạo đức có một vị trí rất quan trọng trong hầu hết các tôn giáo. Pháp luật hay các quy ước là điều cần thiết đối với bất cứ thành viên nào trong xã hội.Trong mỗi gia đình nếu không có quy tắc, gia đình đó sẽ xảy ra bất đồng; một quốc gia, nếu không có phép nước, thì quốc gia đó sẽ nổi loạn. Trong Phật giáo cũng vậy, giới luật đóng một vai trò vô cùng đặc biệt. Giới được xem...

Nhiếp phục sợ hãi
Phật học

Thông thường sống trên cuộc đời, có bốn việc mà ai cũng sợ gặp phải. Trước nhất con người hiện hữu trên cuộc đời, có cuộc sống thì thường sợ nghèo đói và kế tiếp sợ bạn bè xem thường, rồi sợ già, sợ bệnh và sợ chết, mà Đức Phật gọi bốn thứ này...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.