Thông thường sống trên cuộc đời, có bốn việc mà ai cũng sợ gặp phải. Trước nhất con người hiện hữu trên cuộc đời, có cuộc sống thì thường sợ nghèo đói và kế tiếp sợ bạn bè xem thường, rồi sợ già, sợ bệnh và sợ chết, mà Đức Phật gọi bốn thứ này hoành hành con người là sanh lão bệnh tử. Tại sao chúng ta sợ?

Đức Phật dạy rằng vì phát xuất từ lòng tham quá mức, vượt hơn thực tế cuộc sống; thí dụ xấu mà muốn đẹp, đáng bị xem thường nhưng muốn người kính trọng… Như vậy là không thực tế, chỉ là ảo giác thì phải xả bỏ, thiền gọi đó là mộng trong mộng. Ước mơ là mộng và sợ hãi cũng là mộng và cả hai đều phát xuất từ hành nghiệp của mình.

Tu theo Phật, đoạn nghiệp thì lo sợ tự mất trong cuộc sống. Ta sợ bị bỏ rơi vì muốn người khác theo mình, nhưng mình không làm lợi lạc cho người thì sao họ theo được.

Đức Phật dạy rằng chúng sanh sợ quả, Bồ-tát sợ nhân. Trong những năm qua, tuy chưa nhận trách nhiệm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế, nhưng tôi đã tham dự các hội nghị Phật giáo thế giới, làm được một số việc đối ngoại, nên Giáo hội mới tín nhiệm đề cử tôi phụ trách lãnh vực này. Thành quả có được phát xuất từ ý tưởng và việc làm của tôi được nhiều người tán thành; còn chỉ muốn nhưng không làm tốt thì không thể thuyết phục được người khác tín nhiệm.

Chúng ta cần xem lại mình đang ở đâu và mình là ai. Nếu mình được kết hợp bằng tham vọng, nói cách khác, lấy nghiệp và phiền não làm thân mình, lấy việc xấu ác làm mạng mình, đương nhiên phải sầu bi khổ não.

Đức Phật dạy chúng ta buông bỏ gánh nặng nghiệp xuống, bỏ phiền não xuống thì bốn loại ma không tác động ta nữa. Dùng trí tuệ nhận ra được bóng ma không thực, nó thuộc ảo giác, nên chúng ta không sợ. Trên bước đường tu, từng bước bỏ được nghiệp nào thì nỗi sợ hãi theo đó mất lần.

Việc đầu tiên của tôi, tu theo Phật là chấp nhận thực tế nghèo đói, không muốn giàu sang hưởng thụ. Tâm ham muốn tự cắt bỏ, vì Đức Phật dạy rằng lòng ham mê ngũ dục làm chúng ta khổ, nên phải cắt đứt.

Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm

Danh lợi lòng băng với bão đêm.

Tiếng khen chê cho rơi rụng, danh lợi cho đóng băng, không nghĩ tới. Có địa vị hay không, được kính trọng hay bị ghét bỏ… Tất cả những thứ này không tác hại tâm ta dù ở địa vị nào. Chúng ta không tham danh lợi sẽ không khổ với nó. Người tham danh phải che giấu những việc làm xấu ác của họ, vì lo sợ người khác phát hiện ra tội lỗi, nên khổ sở lắm. Phải sống thực, xem xã hội phê phán mình như thế nào; xã hội là tấm gương lớn để chúng ta soi bóng, xem người nghĩ về mình ra sao và theo đó điều chỉnh cho đến khi mọi người đánh giá chúng ta tốt là chúng ta tốt thực sự.

Cuộc đời này đã là không thực rồi, nhưng mọi người lại muốn giả dối thêm nữa, nghĩa là càng đi sâu vào mộng hơn nữa. Phải thức tỉnh, tỉnh giác đến đâu thì nhận thức về cuộc đời của chúng ta sáng tỏ đến đó. Thật vậy, Hòa thượng Thiện Hòa trước khi lìa bỏ huyễn thân, ngài còn bảo đọc bài kệ trong kinh Kim cang:

Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.

Vì đã giác ngộ cuộc đời là như vậy, nên chẳng có gì phải sợ, một lòng thanh thản ngài đi vào thế giới Phật. Thiết nghĩ có sợ thì cũng không thể thoát chết, mà sợ sẽ dẫn vào cảnh khổ.

Các Hòa thượng thường nói mượn cảnh huyễn để độ người trong mộng. Mấy chục năm trước, Hòa thượng Thiện Hoa giảng dạy tại giảng đường này. Hòa thượng đã vắng bóng và các Phật tử thời đó đến đây nghe pháp cũng không còn nữa. Nay đến thời kỳ của tôi và các Phật tử trong đạo tràng. Mai kia chúng ta theo Phật, cũng nhường chỗ này lại cho người khác. Như vậy sân khấu này sẽ tiếp tục là cảnh huyễn cho từng lớp người sống trong mộng khai thác tiếp. Đức Phật của chúng ta xuất hiện trên cuộc đời này cũng thế, Ngài đánh thức chúng ta nhận ra được cuộc sống này là tạm bợ, không nên lấy giả danh cho là mình. Tất cả mọi thứ giả tạm trên cuộc đời đều phải trôi mất theo thời gian, đừng nên khởi lòng tham mà phải lo sợ khổ đau.

Qua kinh nghiệm sống của cha mẹ, tôi càng thấy rõ lời Phật dạy. Bà cụ thân sinh tôi thường sợ nghèo đói nên suốt cuộc đời lam lũ cực khổ để mong thoát cảnh nghèo. Sáng sớm bà cụ tráng bánh tráng xong đem đi bán, chiều về vào rừng lấy củi, tối xay bột làm bánh; làm thật vất vả không hề nghỉ ngơi, nhưng cũng không thoát được cái nghèo. Và ráng thêm một bước nữa lại rớt xuống sâu hơn, rơi vào cảnh nghèo thiếu hơn cho đến bệnh nặng suýt chút nữa là mất mạng. Thật vậy, ông cụ thân sinh tôi cùng với bà cụ nỗ lực làm, làm vượt sức mình, làm lớn để được nhiều tiền, nên phải vay tiền thuê đất để làm; nhưng bão lụt năm Thìn đã cuốn trôi toàn bộ hoa màu, mất trắng. Ông cụ khổ quá đến xuất huyết bao tử, bà cụ vội chở ông cụ lên chùa Hội Lâm nhờ Hòa thượng trụ trì chữa bệnh. Ông cụ được Hòa thượng khai ngộ một câu đơn giản rằng cuộc đời này là giấc mộng, nên sống với thực tế; đừng mơ và xây thêm một giấc mộng nữa, mà thoát ra không được. Được chữa lành bệnh, ông cụ phát tâm xuất gia, sống thanh thản.

Chúng ta thường bỏ con người thực của mình để sống với người mộng, rồi trở thành ma và tiến thêm một bước là đi vào thế giới sân hận khổ đau của A-tu-la. Tất cả những biến chuyển của thế giới tâm lý này chỉ cần buông xả, tỉnh mộng và trở lại thực tế cuộc sống của mình, tùy theo khả năng, sức lực, hiểu biết, phước báu của mình đến đâu thì nên từ căn bản đó mà đi lên.

Tôi chịu ảnh hưởng ông cụ thân sinh nên không sợ bị xem thường, nhưng sợ tham vọng, sợ bước ra khỏi thực tế cuộc sống phải khổ. Sống trên cuộc đời này, làm sao mình biết nhiều nhưng nói ít; năng lực lớn nhưng làm nhỏ thì làm dễ dàng, không lo lắng, làm trong tầm tay nên không bận tâm nhọc sức.

Đức Phật thấu suốt sự biến chuyển của cuộc đời và cả Pháp giới như thấy quả cam trong lòng bàn tay, tức mọi việc đều ở trong tầm tay của Ngài. Thấm nhuần ý này của Đức Phật, tôi ít gặp thất bại nhờ làm những việc vừa sức mình, nói những điều thuộc hiểu biết của mình. Còn năng lực kém, hiểu biết non cạn, nhưng khoe khoang, muốn làm nhiều chỉ chuốc lấy thất bại phiền muộn mà thôi.

Ngoài ra, tôi còn nương nhờ lực của Tăng chúng, tập thể Tăng-già quyết định giao tôi làm việc thì phải có trách nhiệm với tôi; trong đạo chúng ta thường nói Tăng sai mình làm, sẽ được chư Tăng hỗ trợ. Và cao hơn nữa, phải thấy được Phật bổ xứ ta làm thì làm theo Phật, được Phật hộ niệm. Phật bảo làm gì ta làm đó và Phật hộ niệm, ta làm thực dễ dàng.

Khi làm việc gì thành tựu một cách nhẹ nhàng, tôi tự biết là Phật đã hộ niệm, nên việc khó cũng thành dễ. Nếu thiếu sự hộ niệm của Phật và đại chúng không muốn ta làm thì người trong nội bộ tự chống phá, sao làm được. Như vậy, mọi việc thành công là nhờ trên có Phật hộ niệm, dưới có hòa hợp Tăng đồng tình và ma không chống phá được.

Được Phật hộ niệm thì việc càng khó tôi càng bình tĩnh; nói cách khác, Phật đã đi vào tâm mình nên còn lo sợ gì, vì uy lực của Đức Phật siêu đẳng và Phổ Hiền lực cũng quá lớn. Ngài đã phát nguyện hộ trì hành giả Pháp hoa, ta chỉ cần tu theo kinh Pháp hoa chắc chắn sẽ thành công.

Điều quan trọng là chúng ta có vững niềm tin ở Bồ-tát Phổ Hiền, ở kinh Pháp hoa hay không và có đi đúng hướng Đức Phật hay không. Đi đúng hướng tức được Phật bổ xứ và Bồ-tát, Long thiên giữ gìn, chúng ta hoàn toàn an lành, chẳng cần lo sợ. Riêng tôi thường tâm niệm trên đầu mình có Phật, sống ở đây thay Phật làm việc cho chúng sanh và sớm muộn gì cũng rời thế gian tạm bợ này. Sợ nhất là không được về với Phật. Đi đâu thì đi, nhưng luôn nhớ đường về Phật. Quên đường về Phật là bị giam cầm trong ngục tù sáu nẻo luân hồi, chắc chắn khổ vô cùng tận. Có những việc quan trọng rất khó khăn, nhưng tin Phật muốn tôi làm thì nỗ lực làm hết sức mình, nhất định Phật hộ niệm và mạng chung, Phật sẽ rước. Trong suốt 26 năm hoằng pháp thành công, tôi nghĩ do Phật lo, Phật làm, không phải do khả năng mình, nên không sợ.

Nỗi sợ hãi lớn nhất của con người là sợ chết, nhưng sợ cũng không thoát khỏi mà còn bị ác ma lợi dụng cái sợ này để hoành hành, khống chế chúng ta. Nên vứt bỏ nỗi lo sợ trong ảo giác, vì phải biết lo sợ này không thực. Trong thời chiến tranh, người ta mới bị đói thực; ngày nay xã hội phát triển sung túc, đừng sợ đói nghèo vì xã hội quan tâm đến người nghèo, chỉ cần sống lương thiện là được nhiều người thương yêu giúp đỡ.

Sợ nhất là tham vọng quá lớn, làm vượt sức để vươn cao, nhưng rớt xuống sâu hơn.Người Việt mình có câu rất hay là trèo cao té đau. Thực tế cuộc sống một ngày ăn bao nhiêu nhưng lúc nào cũng lo sợ thiếu. Một huynh đệ của tôi nay đã qua đời, nhớ lại trước kia ông thường mua gạo để dự trữ vì sợ đói, mua nhiều ăn không kịp, cứ phải ăn gạo cũ trước và như thế ăn gạo sâu mọt suốt đời.Nếu cuộc sống vật chất khó khăn, nhưng muốn hơn người, nên tự xét lại năng lực, phước báu của mình. Phước báu và tài năng đến đâu hưởng đến đó thì hợp lý, không bị khổ, còn muốn hơn, sẽ dẫn đến quả khổ.

Đức Phật dạy chúng ta tu nhân là tạo 5 phước sẽ được hưởng quả phước. Còn sợ quả khổ nhưng cứ tạo nhân ác cũng giống như người sợ khát mà uống nước muối. Sợ nghèo, muốn làm giàu, nợ chồng chất thêm; đáng bị xem thường nhưng muốn được kính trọng nên khổ.

Theo Phật, tỉnh mộng, xả bỏ tham sân si, đối trước mọi việc xảy ra, ta đều thấy hợp lý. Không tham địa vị thì người kính trọng hay xem thường cũng thế. Không tham không giận, trí tuệ sanh ra, quyết định sáng suốt, mình được hạnh phúc hơn. Nếu ta nghèo, dở, xấu, ta chấp nhận sự chê bai của người và từng bước ta khắc phục nhược điểm để thăng hoa. Nhờ người chê mình dốt, nên ráng học giỏi thì hết dốt, muốn chê nữa cũng không được. Vì vậy, Đức Phật nhắc chúng ta rằng Bồ-tát lo tu nhân, chúng sanh muốn hưởng quả ngọt nhưng cứ gieo hạt giống xấu chắc chắn không bao giờ thoát khổ.

Là Phật tử, trước nhất, chúng ta đặt niềm tin ở Phật, điều quan trọng là không làm trái lời Phật dạy. Tự kiểm xem ta làm bao nhiêu điều trái với Phật mà cứ mong Phật hộ niệm làm sao được và làm theo tham vọng nghĩa là làm theo ác ma mà muốn tránh ác ma sao được. Đúng như pháp tu hành là việc quan trọng nhất của cuộc đời chúng ta, thì không cầu xin, Phật cũng hộ niệm mình. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, làm việc gì không được sự đồng tình ủng hộ của đại chúng, tôi tạm ngưng và điều chỉnh sao cho đại chúng chấp thuận là có Phật hộ niệm, và Phật hộ niệm là ta làm cho Phật sẽ được người quý mến hơn, nên dễ thành công.

Như vậy, để nhiếp phục sự sợ hãi, điều thứ nhất là đặt niềm tin tuyệt đối ở Phật như lời khẳng định của ngài A Nan rằng dù cho mặt trăng nóng lên, mặt trời lạnh lại, lời nói của Như Lai không bao giờ sai. Đức Phật đã buông bỏ quyền lợi địa vị tột đỉnh thì Ngài gạt chúng ta làm gì.

Tin chắc lời Phật không hư vọng và tin rồi thì cố gắng tu hành để nhận thức cho đúng yếu nghĩa mà Đức Phật muốn chỉ dạy. Nếu chúng ta thất bại phải biết rằng do mình nhận thức sai lầm ý Phật, không phải kinh điển sai.

Tin tuyệt đối ở Phật lực che chở, không sợ mất kiếp, không sợ đọa vào ba đường ác. Đó là sự bảo chứng lớn nhất đối với đệ tử Phật. Chúng ta may mắn vô cùng được gặp Phật pháp, thì phải nắm chặt chiếc phao Chánh pháp để thoát ly biển khổ sinh tử. Và thực sự nắm được chiếc phao của Đức Phật trao cho, buồn giận lo sợ khổ đau rơi rụng lần khỏi chúng ta; vì an trụ trong Chánh pháp, biết tất cả mọi việc trên thế gian này chỉ là ảo giác, chúng ta không chấp giữ, nhưng sống đúng với khả năng, phước báu thực của mình, làm những việc tốt cho mọi người và tin tưởng hoàn toàn ở Phật lực gia bị cho chúng ta.

Ngoài ra, chúng ta biết rõ một mình có tài giỏi đến đâu cũng không làm được việc, giống như con cọp là mãnh thú mà loài vật nào cũng khiếp sợ nó, nhưng nếu nó đi một mình cũng dễ bị bầy chó sói tấn công giết chết.

Theo tôi, muốn tu tạo công đức, cuộc đời chúng ta phải gắn liền với xã hội, đóng góp xây dựng xã hội và phải gắn liền với đại chúng đồng hành trong Chánh pháp. Tôi tồn tại và đi lên trên đường đạo trên 60 năm nhờ suốt cuộc đời luôn gắn bó với đại chúng. Nhờ nương lực của đại chúng, của chư Tăng, của đạo tràng Pháp Hoa từ Nam ra Bắc, tổng hợp thành sức mạnh mới đưa ngành hoằng pháp phát triển tốt đẹp. Và lấy đại chúng làm quyến thuộc thì phải làm việc theo quyết định của số đông.

Bước theo dấu chân Phật, càng làm lợi ích cho số đông, càng có nhiều người ủng hộ, con đường đi lên của chúng ta càng cao. Người bỏ rơi mình là biết mình bị đọa. Như vậy, đi lên cao do xã hội đưa lên và rớt xuống hố sâu cũng do xã hội chà đạp.

Tu Đại thừa, bước thứ nhất là vững niềm tin son sắt ở Đức Phật, trên có Phật hộ niệm và bước thứ hai là có quần chúng ủng hộ, tức Bồ-đề quyến thuộc nhiều thì việc làm chúng ta dễ dàng lớn mạnh. Tiếp nhận lực Phật và lực của quần chúng, chúng ta không còn gì phải lo sợ.

Muốn được lòng quần chúng, tất yếu phải phục vụ quần chúng. Đức Phật đã dạy phục vụ chúng sanh là tối thượng cúng dường Phật. Nhiều người hiểu lầm cúng Phật bằng cách dâng cúng thực phẩm cho tượng Phật. Đức Phật không thiếu vật chất và cũng không sống với vật chất, Ngài đã có tự thọ dụng thân.

Đức Phật chỉ tiếp nhận hạnh cúng dường của chúng ta, mà hạnh cao quý nhất là phục vụ chúng sanh. Lo cho chúng sanh, cưu mang cứu vớt chúng sanh, làm chúng sanh hoan hỷ là làm Phật hoan hỷ. Làm mất lòng người mà đến với chùa là mang tai họa cho chùa. Sư bà Huyền Học kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây nói lên ý này. Một người đàn bà có cuộc sống gia đình không ổn đã vào chùa Dược Sư xin sư bà xuất gia. Người chồng liền dắt hai đứa con đến chùa với khẩu súng trong tay và lớn tiếng nói rằng nếu cho vợ ông cạo đầu, ông sẽ bắn chết hai đứa con này rồi tự sát luôn. Sư bà sẽ chứng kiến ba mạng người ngay bây giờ.

Sư bà được Phật hộ niệm nên rất điềm tĩnh nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để độ ông sĩ quan hung dữ này. Bà bảo rằng ông không việc gì mà phải giải quyết như vậy, tôi không cạo tóc cho bà vợ của ông được, vì theo luật Phật, muốn xuất gia phải được gia đình đồng ý, nếu là vợ thì phải được chồng đồng ý mới được đi tu, nếu là con phải được cha mẹ cho phép… Vì đạo Phật giúp cho con người sống hòa hợp, an lạc, chớ không làm mọi người ly tán, không gây đau khổ cho người. Vậy ông yên tâm dẫn vợ về đi! Kết quả là người chồng hết giận, vui mừng vô cùng rồi dắt vợ con về và sau này ông ta cũng phát tâm quý kính sư bà.

Tóm lại, là đệ tử Phật, ý thức được mọi sự sợ hãi lo âu phát xuất từ nghiệp thức, chỉ là ảo giác, không thực.

Trên bước đường tu, đặt niềm tin trong sáng tuyệt đối nơi Phật lực gia bị chúng ta, cũng như gắn bó mật thiết với sinh hoạt của đại chúng đồng hành trong Phật pháp, cùng làm những việc lợi ích cho đạo pháp, đóng góp tốt đẹp cho xã hội, cuộc sống chúng ta chẳng những không còn gì để lo âu sợ hãi mà luôn được an lạc, hạnh phúc, thanh thản, giải thoát.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Vai trò của giới luật trong nếp sống thiền môn
Luật, Phật học

Trong tam tạng kinh điển thì luật tạng (vinaya) có một vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Theo thứ tự sắp xếp thông thường thì tam tạng bao giờ cũng được sắp xếp tuần tự từ kinh, luật và luận. Nhưng theo văn học Pāli, luật tạng được xếp đầu tiên sau đó đến kinh và luận. Điều này cho thấy rằng, luật tạng luôn được đặt trọng tâm trong nếp sống tu học của tứ...

Tìm hiểu Thành Thật Luận
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Đức Phật Thích ca Mâu ni, ngay khi còn thị hiện là Thái tử Tất đạt đa đã vì cảm thấu nỗi thống khổ miên trường của kiếp nhân sinh mà xuất gia. Sau khi thành đạo, Ngài đi khắp nơi trong cõi Ấn độ mà thuyết kinh giảng pháp, khai hóa...

Luận khơi dậy đức tin Đại thừa
Luận, Phật học

LUẬN KHƠI DẬY ĐỨC TIN ĐẠI THỪA Nguyên tác: Bồ-tát Mã Minh Hán dịch: Tam tạng pháp sư Chân Đế, người Tây Ấn Độ, dịch vào đời nhà Lương Việt dịch: Sa-môn Nguyên Hùng LỜI BẠT  I. Tác giả Mã Minh (Aśvaghosa, 馬鳴, 100-160), người Trung thiên trúc, vốn xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành Sa-chi-đa, nước Xá-vệ. Thời đại...

Nghĩ về tánh Không
Luận, Phật học

Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau. Nhưng trong Phật giáo, cả hai đều...

Tâm Lý Học Phật Giáo
Luận, Phật học

TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO Thích Chơn Thiện A. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT I. Về tâm lý học phương Tây 1. Các định nghĩa: Các dịnh nghĩa tâm lý học trước thế kỷ XX (tiêu biểu): a. Wilhelm Wundt (1832 – 1920), người Đức: Wundt là nhà sáng lập phòng thực nghiệm về tâm lý đầu tiên gọi là Psychological laboratory (1879), định nghĩa: “Tôi thiết...

Nghiệp Và Các Loại Nghiệp | U Silannanda – Khánh Hỷ dịch
Luận, Phật học

Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo; bởi vì luật Nghiệp Báo đã giải thích cho họ thấy rõ lý do của sự bất đồng của các cá nhân trong xã hội con người, đồng thời cũng giải thích cho họ biết tại sao những người rất tốt trên cõi đời này lại...

Quá trình hình thành giới luật
Luật, Phật học

Những quy tắc đạo đức có một vị trí rất quan trọng trong hầu hết các tôn giáo. Pháp luật hay các quy ước là điều cần thiết đối với bất cứ thành viên nào trong xã hội.Trong mỗi gia đình nếu không có quy tắc, gia đình đó sẽ xảy ra bất đồng; một quốc gia, nếu không có phép nước, thì quốc gia đó sẽ nổi loạn. Trong Phật giáo cũng vậy, giới luật đóng một vai trò vô cùng đặc biệt. Giới được xem...

Du Già Bồ Tát Giới Bổn – Di Lặc Bồ Tát Tuyên Thuyết
Luật, Phật học

Các vị Bồ tát! sau khi đã thọ lãnh giới pháp thanh tịnh của Bồ tát, phải nên tự mình thường thường chuyên tâm cẩn thận suy ngẫm: “Đây là chỗ Bồ tát nên làm, đây là chỗ Bồ tát không nên làm”. Suy ngẫm như vậy rồi, vì muốn thành tựu công hạnh Bồ tát, cần phải siêng năng tu tập, lại phải chú ý lắng nghe tạng Tố đát lãm, và tạng Ma đát...

Nhân sinh quan theo quan niệm Phật giáo
Luận, Phật học

Trước khi bắt đầu, tôi xin hướng về thành phần Phật tử trong cử tọa hôm nay để nhắc nhở một điều quan trọng, đó là thái độ cần có khi nghe giảng Phật pháp. Quí vị cần ngồi nghe với tâm nguyện thật trong sáng. Lý do chúng ta ngồi đây hôm nay, trao...

Người xuất gia lý tưởng theo kinh Trung A-hàm
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Xuất gia theo đạo Phật là một việc cao cả và không nhiều người làm được, tuy nhiên, một người đã phát bồ-đề tâm quyết chí xuất trần, nếu không gặp thuận duyên từ môi trường sống, cộng đồng Tăng lữ, hay không có vị bổn sư co khả năng hướng dẫn...

Long Thọ Và Khoa Học Lượng Tử
Luận, Phật học

Trong thế giới thường nghiệm, con người quen sống theo một thói quen lấy cá nhân làm trung tâm qui chiếu mọi nhận định, đó là một định chế đã được huân tập từ ngày con người xuất hiện. Quan niệm định chế này còn được củng cố bằng thế giới khoa học nhị nguyên chỉ thấy vũ trụ rất trật tự, gọi là quan điểm Cartesian dualism. Trong một thế giới khoa học rất cụ thể và trật tự rõ ràng như thế, thì quả thật khái niệm vô ngã và tính không bất định của giáo...

Phật thuyết kinh Bà-la-môn mất con
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP “Từ bao đời kiếp, chúng ta đã đổ nước mắt vì người thân quá nhiều: hãy để mình và người thân đừng chìm ngập trong nước mắt ấy nữa.” – đức Phật đã dạy như vậy. Vì dòng nước mắt ấy luôn chất chứa tình yêu luyến ái, chảy ra vị mặn của bi...

Tư tưởng duy tâm trong Kinh Lăng-già
Kinh, Phật học

1. DẪN NHẬP Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh Pháp Lăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923) được ghi chép như sau: Nanjō. 375: इत्यार्यसद्धर्मलङ्कावतारो नाम महायानसूत्रं सगाथकं समाप्तमिति॥ ityāryasaddharmalaṅkāvatāro nāma mahāyānasūtraṃ sagāthakaṃ samāptamiti || (Kết thúc chương chỉnh cú của bản...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Hiểu biết về Tánh không
Luận, Phật học

Việc học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng. Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ là toát yếu sơ lược. Điều vô cùng quan yếu là phải hiểu “Tánh không” có nghĩa là gì. Lại cũng quan trọng để biết Tánh không ở ngay trong tâm mình,...

Một Thời Truyền Luật
Luật, Phật học

Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy, vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ...