Những ngày này tôi dành trọn thời gian để đọc lại, tư duy, suy ngẫm, trải nghiệm một số bản Kinh trong Nikaya gồm Trường BộTrung BộTương Ưng BộTăng Chi Bộ và Tiểu Bộ. Hôm nay là mồng 1 tháng 7 âm lịch. Rằm tháng bảy là kết thúc mùa an cư kiết hạ. Tháng bảy còn có 1 ngày rất đặc biệt nữa: 16 tháng 7 là ngày Hoà Thượng Thích Minh Châu, người đã dày công nghiên cứu và dịch Kinh Phật gốc Nikaya ra tiếng Việt. (20 tháng 10 là ngày sinh của Ngài).

Tôi không thể tưởng tượng ra đất nước Việt Nam nói chung và Đạo Phật Việt Nam nói riêng sẽ như thế nào nếu không có Hoà thượng Thích Minh Châunếu không có Kinh Phật gốc. Từ ngày biết đến Ngài, tôi luôn tự nhớ về Ngài như Đường Tăng của dân tộc Việt Nam, người đã cứu biết bao người con đát Việt ra khỏi vô minhtham ái và khổ đau.

Tôi sinh ra tại Bắc bộ và ngày nhỏ chỉ đến chùa theo tôn giáotín ngưỡng. Trong con mắt cậu bé ngày ấy, Đức Phật là 1 vị thần linh, và chùa là nơi để đến xin xỏcầu xin. Trong chùa quê tôi phần lớn là các lễ nghi tôn giáotín ngưỡng với thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Chùa khi đó toàn các cụ già (mà phần lớn là cụ bà) đến để chỉ tụng Kinh Phổ mônA Di ĐàĐịa tạngDược sư,… rồi niệm Phật A Di ĐàHoàn toàn không có giảng Pháp!

May thay (và có lẽ do có phước lớn, tu từ các kiếp trước) nên tôi được gặp Hoà thượng Thích Minh Châu. Phước này là nhờ bác Vũ Chầm (Chủ tịch Vina Giày, Chủ tịch CLB Doanh nhân Phật tử ở Sài Gòn). Tôi được đảnh lễ Ngài, được nghe Ngài giảng.

Nhưng mốc lớn nhất có lẽ là quãng 2008 khi tôi mới lần đầu tiên có trong tay Kinh Trung Bộ, 1 trong 5 bộ Kinh Nikaya. Tôi vẫn nhớ rằng mình đã đọc ngấu nghiến. Trước đó tôi chưa hề có, chưa hề đọc các bộ Kinh Phật gốc Nikaya. Sau này tôi mới thỉnh được đầy đủ Kinh Nikaya đủ cả Trường BộTrung BộTương Ưng BộTăng Chi Bộ và Tiểu Bộ.

Tôi vẫn nhớ mình đẫ đọc ngay 4 bản Kinh đầu tiên là Kinh Phạm VõngKinh Thập thượngKinh Pháp Môn Căn Bản và Kinh Căn Tu Tập. Đây là các bản Kinh đầu và cuối của Trường Bộ và Trung Bộ Hơi khó hiểu! Khó nhớ!

Tôi không thể quên bản Kinh đầu tiên được nghe Hoà Thượng Thích Minh Châu giảng và được nghe bác Vũ Chầm liên tục nhắc đến là Kinh “Nhất dạ hiền giả”. Đây là 1 trong 2 bản Kinh tôi học thuộc lòng đầu tiên (cùng với Kinh Phước Đức).

Sau này, nghe giảng, tìm hiểukhám phá, đọc dần tôi mới thấy có một bản Kinh rất quan trọng là Kinh Niệm xứ (Kinh số 10 của Trung Bộ Kinh) và Kinh Đại Niệm Xứ (Kinh số 22 của Trường Bộ Kinh). 2 bản Kinh này tôi đọc kỹ, học thuộc ngay từng đoạn! Và đây là mấu chốt để tôi theo học, tư duy và thực hành thiền chánh niệm. Quá tuyệt vời!

Rồi tôi đi tìm bản Kinh đầu tiên mà đức Phật giảng. Tôi tìm bản Kinh cuối cùng trong 45 năm thuyết Pháp của Đức Thế Tôn. Và đã có ngay Kinh Chuyển Pháp Luân cùng Kinh Đại Bát Niết Bàn. Thật sự là vi diệu. Tôi phát tâm thuộc lòng ngay khi đó. Để nhớ, để tư duy, suy ngẫm, quán chiếu, để thực hành.

Từ những bản Kinh căn bản ban đầu này tôi mới phát hiện ra con đường tu theo Chánh Pháp là 4812737 tức là Tứ Thánh Đế + Bát Chánh Đạo + 12 nhân duyên + 7 con đường (Tứ niệm xứTứ chánh cầnTứ như ý túcNgũ cănNgũ lựcThất giác chiBát chánh đạo) + với 37 chi phần Đạo Đế. Tôi biết rằng chỉ cần đọc, học, tư duythực hành theo công thức này cũng là quá đủ. Thật sự là tuyệt vời!

Cứ thế và tôi tìm tiếp các bài Kinh giải thích rõ định nghĩa của từng từ, từng chữ trong các bản Kinh quan trọng nhưChuyển pháp luânTứ niệm xứ,… Bởi đơn giảnnếu không biết rõ các định nghĩa, khái niệm, không có công thức, không biết đường thì tu mù thôi. Thật sự hạnh phúc!

Hôm nay, mồng 1 tháng 7, ngồi đọc Kinh Nikaya mà hỷ lạc trong thân và tâm đang tràn dâng. Thật là lạ rằng tôi luôn có hỷ lạc khi đọc Kinhtụng Kinh, nghe giảng Kinh, chia sẻ Kinh Nikaya. Thật sự là vậy. Hỷ lạc cứ thế tuôn chảy. Bình an và nhẹ nhàng vô cùngAn nhiên và tự tại lắm. Nhẹ nhõm và an lạc kỳ lạ. Tôi luôn thấy phấn khởi, tín thành khi đọc tụng Kinh Nikaya.

Giật mình nhiều lần, cả trăm lần: Nếu không có Hoà thượng Thích Minh Châu thì tôi mù Phật Pháp, tôi không biết đến Chánh Pháp. Và nếu vậy, tôi lại chỉ đi theo con đường tôn giáotín ngưỡng mà thôi. Nếu không có Hoà thượng, tôi không thể biết đến Kinh Phật gốc Nikaya (vì tôi chỉ biết tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga,… chứ không hề biết tiếng Pali, thì sao mà đọc mà hiểu được Nikaya).

Ngồi nhớ lại, tôi đã thuộc lòng ngay những câu từ của Hoà thượng Thích Minh Châu ngay từ khi có Nikaya trên tay. Hoà thượng chỉ ra và dạy rằng:

“Chúng tôi dịch Kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Độ, Trung Hoa hay Việt Nam.

Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủyChỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủyTrách nhiệm tìm hiểuchứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Đạo Phật là Đạo đến để mà thấy chớ không phải Đạo đến để nhờ người thấy hộ, Đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Đạo của người nhắm mắt; Đạo của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là Đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.”

Đây là những gì Hoà thượng đã chỉ ra từ năm 1973, khi đó tôi mới có vài tuổi. Tiếc thay mà sau tận hơn 30 năm sau tôi mới biết đến Kinh Trung Bộ, đến Nikaya. Tiếc thay (và may thay) mà đến khi tôi hơn 40 tuổi mới thật sự có trên tay Kinh Phật gốc để đọc, để học, để nghiên cứu, để suy ngẫm và thực hành.

Tôi đã giật mình, đã ghi nằm lòng 2 câu cốt yếu, rằng chỉ có người đọc, sau khi TỰ MÌNH đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình CHỨNG NGHIỆM TRÊN BẢN THÂN. Rằng Đạo Phật là Đạo ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY chứ không phải Đạo đến để nhờ người thấy hộ, Đạo của người CÓ MẮT, không phải Đạo của người nhắm mắt; Đạo của NGƯỜI THẤY, của NGƯỜI BIẾT, không phải là Đạo của người không thấy, không biết. Tôi đã liên tục tự mình biết ơn Hoà thượng Thích Minh Châu, vị Đường Tăng của Việt NamBiết ơn tràn dâng!

Mỗi câu chữ trong 5 bộ Kinh Nikaya tôi luôn nhắc mình đọc kỹ, suy ngẫm và ghi nhớ. Luôn niệm Kinh, luôn nhắc mình chánh niệm.  Niệm là là NHỚ, NGHĨ NHỚ, NHỚ NGHĨ, NHỚ ĐẾN. Tôi phát nguyện luôn nhớ đến Kinh, luôn nghĩ nhớ, nhớ nghĩ đến Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng, luôn nhớ đến những bài giảng rất cụ thể của Đức Phật Thích Ca Mâu NiHạnh phúc làm sao!

Nhờ Hoà thượng Thích Minh Châu mà năm 2008 tôi đã thật sự may mắn biết đến CHÁNH PHÁP. Chỉ từ khi đó tôi mới dần dần NHỚ ĐẾN và thực hành lối sống BÁT THÁNH ĐẠO với 8 chi phần gồm gồm: Chánh tri kiếnChánh tư duyChánh ngữChánh nghiệpChánh mạngChánh tinh tấnChánh niệmChánh định. Nhờ có Kinh Phật gốc Nikaya tôi mới thấy biết rằng chính Bát Thánh Đạo là DIỆT ĐẠO trong TỨ THÁNH ĐẾ, tức là con đường đưa đến chấm dứt khổ đau, chấm dứt sinh từ luân hồi rất quan trọng. Bắt buộc phải hiểu rõ và thực hành Bát Thánh Đạo. Quá tuyệt vời!

Niệm là nhớ đến. Từ ngày biết đến Kinh Nikaya do Hoà thượng Thích Minh Châu dịch ra tiếng Việt tôi luôn nhắc mình NHỚ đến CHÁNH PHÁP, tức là những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã được ghi rất rõ trong Kinh Nikaya gồm Trường bộTrung bộTương ưng bộTăng chi bộTiểu bộ.

Cũng phải thú nhận thật tâm rằng trước đây tôi đã hiểu sai, hoàn toàn sai, thực hành sai việc niệm Phậtniệm Phápniệm Tăng và không hề biết đến niệm Giớiniệm Thíniệm Thiên. Chính nhờ có Nikaya mà tôi mới biết rằng, Niệm Phật là nhớ đến Đức Phật Thích Ca là bậc Như LaiA La Hán cao thượng, Chánh đẳng Chánh giác với 10 Ân đức (10 Tôn hiệu): ỨNG CÚNGCHÁNH BIẾN TRIMINH HẠNH TÚCTHIỆN THỆTHẾ GIAN GIẢIVÔ THƯỢNG SĨĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHUTHIÊN NHÂN SƯ, PHẬT, THẾ TÔN.

Nhờ Nikaya tôi mới biết rằng Niệm Pháp là nhớ đến Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng gồm 5 đặc điểm THIẾT THỰC HIỆN TẠI, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY, KHÔNG CÓ THỜI GIAN, CÓ TÍNH HƯỚNG THƯỢNG,  CHO NGƯỜI TRÍ TỰ MÌNH GIÁC NGỘ.

Nhờ những cuốn Kinh do Hoà thượng Thích Minh châu dịch ra tiếng Việt tôi mới biết rằng Niệm Tăng là nhớ đến: DIỆU HẠNH là chúng đệ tử Thế Tôn, TRỰC HẠNH là chúng đệ tử Thế Tôn, ỨNG LÝ HẠNH là chúng đệ tử Thế TônCHÁNH HẠNH là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng tăngđệ tử Thế tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.

Và nếu mà không có Kinh Phật gốc, con không thể thấy biết rõ rằng niệm giới là nhớ đến giữ 5 giới, 8 giới, 10 giới: “Giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không có uế tạp, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định”.

Và rằng niệm Thí: “Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta, vì rằng với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đình, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phốibố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầuưa thích phân phát vật bố thí”. (Tăng Chi Bộ Kinh, Chương Sáu Pháp – 1. Phẩm Đáng Được Cung Kính)

Nhờ có Hoà Thượng Thích Minh Châuchúng ta mới có 5 bộ Kinh Phật gốc và nhờ đó mà mới có thể biết đến rõ về NGŨ UẨNDANH SẮC, 6 CĂN, 6 TRẦN (6 nội xứ, 6 ngoại xứ), 6 XÚC, 6 THỨC, 6 THỌ, 6 TƯỞNG, 6 TƯ, 6 ÁI, 4 THỦ, 3 HỮU, với rất nhiều câu Kinh ngắn gọn, quan trọng nhất chắt lọc là từ 5 bộ Kinh Nikaya. Thật sự vi diệu.

… Sau 15 ngày nữa, các Phật tử Việt Nam sẽ kỷ niệm 10 năm ngày Hoà thượng Thích Minh Châu rời cõi tạm. Con đang ngồi đây, sau thời thiền sáng, nhớ về Ngài với sự biết ơn vô cùng lớn lao và chân thành. Con không thể tưởng tượng ra đời mình (và biết bao Phật tử khác) sẽ ra sao, nếu không biết đến, nếu không có trong tay bộ Kinh Phật gốc Nikaya do Ngài dày công nghiên cứu và dịch ra tiếng Việt.

Con đang ngồi và nhớ lại những kỷ niệm với Hoà thượng, về chuyến thăm Hoà thượng cuối cùng, chỉ cách ngày Ngài viên tịch có vài hôm. Con vẫn nhớ rõ lễ đưa tiễn Ngài với bao xúc động của biết bao người.

Con ngồi đây và đang nhẩm lại câu Kinh mà con rất thường xuyên tụng niệm “Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Thế Tônquy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Xin Thế Tôn nhận con làm đệ tử. Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”

Con xin thành tâm đảnh lễ và ngàn vạn lần biết ơn Hoà thượng Thích Minh ChâuĐường Tăng của Việt Nam.

TS Nguyễn Mạnh Hùng, công ty sách Thái Hà

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Tiểu sử Hòa thượng Thích Huệ Trí (1952-2024)
Danh Tăng

Hòa thượng Thích Huệ Trí (1952-2024) Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN; Phó Trưởng ban Ban Tăng sự Trung ương; Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nguyên Phó Chánh Văn phòng 2 Trung ương GHPGVN; Nguyên Trưởng ban Ban Pháp chế Trung ương; Nguyên Trưởng ban Ban Trị sự...

Sơ lược tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Đạt Thanh, Pháp chủ Giáo hội Tăng-già Nam Việt
Danh Tăng

Thời niên thiếu Đại lão Hòa thượng thượng Đạt hạ Thanh, pháp danh Như Thông, thế danh Võ Minh Thông, sau đổi tên là Võ Bửu Đạt. Ngài sinh vào giờ Ngọ, một ngày trong tiết Mạnh Xuân năm Đinh Sửu (1877), tại làng Tân Thới Thượng thuộc tổng Bình Thạnh Hạ, H.Bình Long, phủ...

Lược sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909 – 1984)
Danh Tăng

Hòa thượng húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Thích Trí Thủ. Hòa thượng sanh giờ Hợi ngày 19.9 năm Kỷ Dậu tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một dòng tộc nối đời sùng mộ Phật pháp. Hòa thượng thuộc thế hệ thứ tám của họ Nguyễn,...

Tiểu sử Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa(1918-1973)
Danh Tăng

I-THẾ TỘC: Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân...

Nguồn càng sâu – Dòng càng dài
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Tác giả bài viết: TT. Thích Tâm Hạnh* Tóm tắt: Tổ sư Liễu Quán ở tổ trên nhánh cây, ăn rong “sột soạt” mà thiền cơ dĩnh ngộ, xuất kệ lập nên thiền phái, đời đời nối thạnh. Từ xưa đến nay, bậc Tổ đức nào miên mật công phu, chứng ngộ, bảo nhậm rồi sáng...

HT Thích Phước Sơn với văn hóa và giáo dục
Danh Tăng

Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương...

Thiền sư Vô Ngôn Thông
Danh Tăng

Vô Ngôn Thông là một vị sư người Trung Quốc, nhưng có công truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Sư đến Việt Nam vào năm 820, ở tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Vô Ngôn Thông là một thiền sư, cũng là tên một thiền phái Phật...

Tiểu sử Hoà thượng Tuệ Sỹ
Danh Tăng

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15-2-1943 theo khai sanh (gia đình khai tăng tuổi để thầy đi học), tuổi thật sinh ngày 05 tháng 4 năm 1945 (nhằm ngày 23 tháng 02 năm Ất dậu), tại tỉnh Paksé, Lào; Thân phụ: Cụ ông Phạm Văn Phận, Pháp danh Trung Thảo, Thân mẫu: Cụ...

Cổ thụ trong rừng thiền (Hòa thượng Mật Hiển)
Danh Tăng

Hòa thượng Mật Hiển tại chánh điện chùa Trúc Lâm (ảnh 18/7/1989) 1.-    山有乔木 – Sơn hữu kiều mộc. Rừng già, vì trong đó có cổ thụ. Cây cao, bóng cả sừng sững giữa trời. Từ những mầm non mong manh, rồi chen chúc với cỏ dại, lau lách; năm tháng chồng chất bởi nắng, gió,...

Hòa thượng Chơn Giám Trí Hải – Tổ khai sơn Bích Liên Tự và dòng kệ truyền thừa
Danh Tăng

Dòng kệ truyền thừa của Hòa thượng Chơn Giám Trí Hải, Tổ khai sơn Bích Liên Tự ở tỉnh Bình Định, dù chỉ mới xuất hiện hơn 70 năm trở lại đây, nhưng dòng kệ này cũng đã góp phần làm cho sự phát triển của các Thiền phái Phật giáo tại miền Trung thêm...

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Sam (1929 -2018)
Danh Tăng

Suốt một đời, Hòa thượng sống hết sức bình thường dung dị, siêng năng cần cù, nhu hòa nhẫn nhịn. Tuy nghiêm khắc với bản thân, nhưng lời nói và việc làm luôn “tri hành hợp nhất”, hết lòng phụng sự Tam bảo, nên hạt giống Bồ-đề luôn giữ trọn trong tâm. Đại lão HT.Thích...

Vài nét về tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Độ (1894 – 1979)
Danh Tăng

Với học hạnh kiêm ưu, công hạnh Đạo – Đời toàn vẹn, và những đóng góp to lớn cho đạo pháp và dân tộc như thế, Hòa hượng xứng đáng là ngôi sao Bắc Đẩu trong phong trào chấn hưng và thống nhất Phật giáo Việt Nam. TIỂU SỬ PHÁP SƯ TRÍ ĐỘ(1894 – 1979)...

Hòa thượng Thích Thiện Hoa: Cây đại thụ Đạo pháp – Dân tộc
Danh Tăng

Trong phong trào chấn hưng Phật Giáo Việt Nam, các bậc Long Tượng tiếp nối ra đời làm sáng ngời lịch sử Phật Giáo phục hưng, nhất là trong thời kỳ cận đại, những tấm gương sáng chói của phong trào phục hưng trong đó có Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Trong lịch sử dân...

Hòa thượng Thích Hiển Tu – Cốt cách của bậc Long tượng
Danh Tăng

Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc. Các bậc cao tăng như Thiền sư Vạn Hạnh, Phật hoàng Trần Nhân Tông,… đã hiến dâng hoa đời hương đạo, xiển dương chánh pháp, phụng sự dân tộc. Tiếp nối dòng lịch sử ấy, Hòa thượng Thích Hiển Tu – bậc Long tượng thạch...

Đôi nét về tiểu sử Hòa thượng Thích Thanh Tứ
Danh Tăng

Hòa thượng Thích Thanh Tứ (1927 – 2011) Thành viên Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, XII; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc...

Thiền sư Khương Tăng Hội
Danh Tăng

Thiền sư Khương Tăng Hội là một trong những danh Tăng Việt Nam có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam. Nghiên cứu về ngài là thiết thực tìm về cội nguồn Phật giáo Việt Nam, cũng như tiếp nối những giá trị từ học phong của các thế hệ...