Hòa thượng pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế và đời 43 thuộc phái Thiên Thai, Phó Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, Phó Tổng lý tổ đình Ấn Quang, Viện chủ chùa Huệ Nghiêm.

Chân dung Hòa thượng Thích Bửu Huệ
Chân dung Hòa thượng Thích Bửu Huệ (1914-1991)

Thân thế

Hòa thượng pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sinh năm Giáp Dần (1914), tại xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, tỉnh Ðịnh Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Hòa thượng sinh trưởng trong một gia đình trung nông, giàu lòng kính tin Tam bảo. Thân phụ là ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Thu. Hòa thượng theo họ mẹ, là người con thứ hai trong gia đình gồm hai anh em.

Xuất gia học đạo

Thuở nhỏ, Hòa thượng thường theo mẹ đi chùa lễ Phật. Sớm liễu ngộ lẽ vô thường tan hợp, sinh ly tử biệt nên ngài quyết tâm tìm con đường giải thoát.

Ban đầu, ngài thọ pháp với Hòa thượng Huệ Ðăng ở chùa Thiên Thai tại Bà Rịa.

Năm 1938, khi được sự chấp thuận của song thân, ngài quy y với Hòa thượng Pháp Long, thuộc dòng Lâm Tế, trụ trì chùa Thiên Phước tại Tân Hương. Ngài được Hòa thượng Bổn sư chỉ dạy kinh Phật và hướng dẫn đọc các tạp chí Phật học như Từ Bi Âm, Duy Tâm, Viên Âm, Ðuốc Tuệ…

Năm 1944, Hòa thượng thế phát xuất gia tại chùa Thiên Phước. Tám tháng sau, ngài thọ giới Sa-di ở chùa Long Quang, Vĩnh Long.

Năm 1946, Hòa thượng Trí Tịnh và Hòa thượng Thiện Hoa khai mở Phật học đường tại chùa Phật Quang, Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long). Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho phép tham dự lớp Sơ đẳng Phật học tại đây trong hai năm.

Năm 1948, Phật học đường Liên Hải được thành lập tại chùa Vạn Phước, xã Bình Trị Ðông, do Hòa thượng Trí Tịnh làm Giám đốc. Ngài cùng với các huynh đệ đồng học lớp Sơ đẳng Phật học, tiếp tục tham dự lớp Trung đẳng Phật học trọn khóa ba năm tại đây.

Năm 1949 tại Phật học đường Liên Hải mở Giới đàn, ngài được Ban Giám đốc cho đăng đàn thọ Tỳ-kheo và Bồ-tát giới.

Năm 1950, Phật học đường Nam Việt được thành lập tại chùa Sùng Đức, Chợ Lớn.

Năm 1951, Phật học đường Nam Việt dời sang chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh Chợ Lớn. Ngài hoàn tất chương trình Trung đẳng Phật học.

Từ năm 1951 đến năm 1954, ngài học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt Ấn Quang, cùng với chư huynh đệ đồng khóa như Thượng tọa Huệ Hưng, Thượng tọa Thiền Tâm, Thượng tọa Tắc Phước, Thượng tọa Bửu Ðạt, Thượng tọa Tịnh Ðức, Thượng tọa Tịnh Chơn….

Với đức tánh hiền hòa khiêm tốn, bao dung nhẫn nại, giới hạnh trang nghiêm và tuổi tác cũng lớn hơn các vị đồng học nên Hòa thượng được xem là người anh cả. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Phật học, ngài cùng với huynh đệ đồng khóa trụ lại Ấn Quang một thời gian để hỗ trợ Hòa thượng Giám đốc và chư vị pháp sư trong việc điều hành và quản lý Phật học đường. Ngài đảm nhận chức Tri sự, Thượng tọa Thiền Tâm đảm nhận chức Tri chúng. Ngài luôn hoàn tất tốt mọi công tác mà Ban Giám đốc và đại chúng giao phó, được người trên quý trọng khen ngợi, kẻ dưới thương yêu kính mến.

Thời gian sau, ngài và Thượng tọa Thiền Tâm xin phép Ban Giám đốc trở về quê hương để lập thất tịnh tu trong thời gian dài. Hai vị đồng phát nguyện với Ban Giám đốc, sau 10 năm tịnh tu sẽ cùng nhau gánh vác Phật sự nhằm báo ơn Thầy Tổ và Tam bảo.

Thời gian hành đạo

Từ lúc cắt ái từ sở thân, xuất gia cầu đạo cả, ngài đã vạch sẵn một lối đi rõ rệt: “Tôi phát nguyện học Phật 10 năm, nhập thất tịnh tu 10 năm và ra làm Phật sự 10 năm”. Cho nên, sau khi xin phép Ban Giám đốc trở về quê, từ năm 1954-1964, ngài bế quan tại tịnh thất Nam Tuyền, xã Tân Hương, tỉnh Định Tường.

Nhận được sự hộ trì tận tâm từ gia đình người anh ruột về vật chất, ba năm đầu kết thất, bằng pháp môn Thiền – Tịnh song tu, ngài đã hàng phục vọng tâm, an định nội ma, diệt trừ ngoại chướng, dung hòa chơn tục, tỏ tường diện mục, xuất nhập thong dong, an nhiên tự tại. Bảy năm tiếp theo là thời gian tiến sâu hơn vào con đường biện tâm và niệm Phật tam muội.

Từ năm 1958-1961, số lượng Tăng sinh ở các tỉnh miền Tây đến Sài Gòn tham học ngày càng đông. Đặc biệt, sau pháp nạn 1963, Phật giáo bắt đầu khôi phục và khởi sắc, nhu cầu mở rộng Phật học đường là điều tất yếu nên Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Thiện Hòa quyết định dời lớp Trung đẳng vào An Dưỡng Địa, huyện Bình Chánh.

Trong phiên họp ngày 4-2-1964 tại chùa Ấn Quang, Thượng tọa Thanh Từ thừa ủy nhiệm của nhị vị Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Thiện Hòa về Tân Hương thỉnh ngài, và đến Bến Tre thỉnh Thượng tọa Thiền Tâm xả thất để thực hiện sứ mệnh hoằng pháp độ sinh, “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”. Nhận thấy duyên tiếp chúng độ Tăng đã đến nên ngài và Thượng tọa Thiền Tâm hoan hỷ nhận lời mời và chung tay cộng tác Phật sự. Kể từ đây, ngài đã chánh thức bước vào con đường tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.

Về lĩnh vực giáo dục

Thừa sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Phật học đường Ấn Quang, Trường Trung đẳng Phật học Chuyên khoa được thành lập và đặt tại chùa Huệ Nghiêm thuộc huyện Bình Chánh, tỉnh Gia Ðịnh (nay là TP.Hồ Chí Minh) do Hòa thượng Bửu Huệ làm Giám đốc, Hòa thượng Thiền Tâm làm Giáo thọ, Hòa thượng Thanh Từ làm Quản viện. Cùng thời gian đó, Phật học Ni trường Dược Sư được khai mở, cũng dưới sự lãnh đạo của ba vị Hòa thượng.

Trong phiên họp ngày 4-5-1965 tại chùa Ấn Quang, Ban Giám đốc kết hợp Tổng vụ Tăng sự và Phật học vụ, bàn bạc về việc cải thiện và phát triển ngành Giáo dục Phật giáo. Cuối cùng quyết định đổi tên trường Trung đẳng Phật học Chuyên khoa thành Phật học viện Huệ Nghiêm và tiếp nhận thêm khoảng 300 Tăng sinh vào tu học tại Viện.

Năm 1968, Phật học Viện Huệ Nghiêm trở thành Học viện Chuyên khoa Nội điển nên các Tăng sinh có nhu cầu học song song chương trình thế học và Phật học được chuyển đến các Phật học viện khác để lưu học như: Hải Ðức ở Nha Trang, Liễu Quán ở Phan Rang, Bảo Tịnh ở Phú Yên, Nguyên Thiều ở Bình Ðịnh…

Thể theo lời mời của Thượng tọa Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Văn hóa Giáo dục, Hòa thượng đảm nhận chức Phụ tá Vụ trưởng Phật học vụ, đặc trách các Phật học Viện Phật giáo Bắc tông tại các tỉnh miền Nam.

Năm 1970, Ðại hội Văn hóa Giáo dục kỳ IV họp tại TP.Ðà Lạt, Giáo hội quyết định thành lập Viện Cao đẳng Phật học và đặt tại chùa Huệ Nghiêm, suy cử Hòa thượng Trí Tịnh làm Viện trưởng và Hòa thượng Bửu Huệ làm Phó Viện trưởng. Bên cạnh đó, ngài đóng vai trò trực tiếp quản lý và điều hành chương trình tu học cho các Tăng sinh ở Huệ Nghiêm.

Từ năm 1971 đến năm 1975, ngài phụ trách giảng dạy bộ môn luận Biện trung biên cho Tăng, Ni sinh ở hai trường Phật học Huệ Nghiêm và Dược Sư.

Quản lý cơ sở

Ngày 7-12-1974, Hòa thượng Thiện Hòa lâm trọng bệnh. Trước sự chứng minh của ông Chưởng khế Nguyễn Bích Lưu, Hòa thượng Thiện Hòa đã lập văn bản ủy quyền cho Hòa thượng Bửu Huệ quản lý và điều hành các cơ sở trực thuộc tổ đình Ấn Quang mà Hòa thượng đã sáng lập từ năm 1951 như hãng nước tương Vị trai Lá Bồ Ðề (cơ sở đặt tại chùa Giác Sanh, đường Âu Cơ), Cô nhi viện Diệu Quang (huyện Bình Chánh)… Hòa thượng Bửu Huệ vâng theo chỉ thị, ký tên và nhận lãnh trách nhiệm, đồng thời trở thành thành viên chính thức trong Hội đồng Quản trị tổ đình Ấn Quang, với chức vụ Phó Tổng lý. Về sau, Hội đồng Quản trị tổ đình Ấn Quang và Giáo hội Phật giáo suy cử ngài làm Trưởng ban Ban Quản trị để duy trì và phát triển Cao đẳng Phật học viện Huệ Nghiêm.

Mặc dù phải điều hành nhiều Phật sự của Giáo hội, nhưng ngài vẫn luôn tập trung vào công tác đào tạo Tăng tài và hướng dẫn hàng Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử tu tập theo pháp môn Tịnh độ, duy trì câu Phật hiệu trong nếp sống sinh hoạt hàng ngày.

Khai đàn truyền giới

Năm 1965, thừa sự chỉ đạo của Tổng vụ Tăng sự, ngài đảm nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tổ chức và làm Giáo thọ sư trong Giới đàn truyền Sa-di giới cho 200 giới tử, tổ chức tại Phật học Viện Huệ Nghiêm.

Năm 1966, thừa sự chỉ đạo của Tổng vụ Tăng sự, ngài đảm nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tổ chức Ðại giới đàn Quảng Ðức lần thứ I, tổ chức tại Phật học Viện Huệ Nghiêm, truyền Tỳ-kheo và Bồ-tát giới cho các giới tử tại bổn viện và từ các địa phương khác.

Năm 1968, ngài được Ban Giám đốc Phật học viện Nha Trang và Ban Kiến đàn cung thỉnh làm Giáo thọ sư trong Ðại giới đàn Hải Ðức, tổ chức tại Phật học Viện Trung phần Nha Trang.

Năm 1969, thừa chỉ đạo của Tổng vụ Tăng sự, ngài đảm nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tổ chức Ðại giới đàn Quảng Ðức lần thứ II, tổ chức tại Phật học Viện Huệ Nghiêm, truyền Tỳ-kheo và Bồ-tát giới cho các giới tử đến từ các địa phương khác.

Dạy chúng tịnh tu

Hòa thượng dạy: “Người xuất gia học đạo, không khác gì một lương tướng xông vào trận giặc, đánh dẹp hiên ngang, trước hết phải tinh thuần võ nghệ. Ðược như thế, thì cách vãn hồi an ninh trật tự cũng không khó.

Trọng trách của người độ hóa quần sinh, trước hết cần phải giải thoát chính mình, bản thân chưa tự cởi trói thì làm sao cởi trói cho người.

Giống như loài trâu, ban ngày ăn no cỏ, tối về nhai lại. Người học Phật, khi tiếp nhận Phật lý thì phải tư duy, nghiền ngẫm thấu đáo rồi mới ứng dụng tu hành. Cho nên việc nhập thất tịnh tu, là một pháp môn thiết yếu trong nhiều pháp môn. Thời gian nhập thất là lúc tư duy Phật lý cho chín muồi và ứng dụng vào đời sống cho viên mãn”.

Sau năm 1975, mọi sinh hoạt Phật sự tại Viện Cao đẳng Huệ Nghiêm có nhiều thay đổi nhưng đều tiến triển nhịp nhàng theo hoàn cảnh xã hội. Ngài hướng dẫn chư Tăng tập trung vào việc tu trì, tránh bớt duyên trần, xây dựng đời sống hướng nội, tinh cần vững chãi trước sự đổi thay của xã hội và tiếp tục duy trì mạng mạch của Phật pháp.

Ngài kiến thiết các tịnh thất để hướng dẫn chư Tăng nơi Phật học viện theo thứ tự luân phiên đả thất, nhằm trau dồi định tuệ, tấn tu đạo nghiệp, thấu triệt nguồn tâm.

Rằm tháng Tư năm Bính Thìn (1976), Hòa thượng đã thân lâm chứng minh lễ sái tịnh khai thất, mở ra chương trình kết thất tịnh tu cho chư Tăng tại bổn viện, lấy lục tự Di Đà làm pháp môn hành trì với tông chỉ một đời vãng sinh Tây phương Tịnh độ.

Hòa thượng thị chúng: “Chúng ta không những làm Phật sự trong một kiếp này, mà còn làm Phật sự cho đến khi Ðức Phật Di Lặc ra đời. Vấn đề trọng yếu, là đừng cho mất thiện căn tu hành.

Phải biết rằng, ngày nay chúng ta đang học và làm bài thi của Ðức Bổn Sư Thích Ca. Nhưng Giám khảo chấm thi, đó là Ðức Phật Di Lặc. Ba vị Tam thế Bổn Sư có nhân duyên lớn với chúng sinh trong cõi Ta-bà, đó là Phật Di Ðà, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc.

Như vậy, chúng ta phải làm thế nào để được gặp Phật Di Lặc thọ ký trong hội Long Hoa, có như vậy mới đủ tư cách thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”.

Ngài thích sống cộng trụ, hòa mình với đại chúng và xem Tăng thân là những bậc thiện trí thức. Ngài thường nói: “Chúng ta nguyện làm pháp lữ Ðại thừa với nhau, cho đến khi Ðức Từ Thị ra đời!”

Với hơn 300 Tăng sinh được sự giáo dưỡng của Hòa thượng suốt hơn 25 năm tại Phật học Viện Huệ Nghiêm, nay đều trở thành những bậc thạch trụ tòng lâm, tiếp nối sự nghiệp hoằng dương Phật pháp và gìn giữ ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Thời kỳ viên tịch

Thân tứ đại mỏi mòn trên cuộc lữ,

Xe Ðại thừa chở khách dặm đường xa.

Duyên giáo hóa vẹn tròn theo năm tháng,

Đường độ sinh muôn thuở ngát hương hoa.

Năm 1980, biến chứng từ căn bệnh sốt rét trong quá khứ có phần nghiêm trọng, dù chư Tăng tại Viện tận tâm tìm kiếm các bác sĩ Đông y, Tây y để chữa trị nhưng sức khỏe của ngài bắt đầu suy giảm. Từ đó, việc quản lý và điều hành tại Viện được giao phó Ban Quản chúng đảm nhiệm, ngài chỉ giữ vai trò Cố vấn chỉ đạo.

Ngài giao phó nhiệm vụ cho bốn vị Thượng tọa: Thích Chơn Lạc, Thích Minh Thông, Thích Chơn Thanh và Thích Thiện Quý, tiếp tục duy trì và phát triển cơ sở Huệ Nghiêm.

Từ năm 1980-1991 dù thân mang trọng bệnh nhưng hàng ngày ngài luôn an trú trong câu Phật hiệu, hòa nhan ái ngữ, từ nhãn thị chúng.

Đầu thu năm Tân Mùi (1991), trong buổi khai thị về niệm Phật, ngài bảo đại chúng: “Tôi thấy hoa sen lớn bằng mẫu đất hiện ra trước mặt, ba ngày sau mới tan biến”.

Vào lúc 14 giờ, ngày 27 tháng 10 năm Tân Mùi (2-12-1991), ngài tắm gội sạch sẽ, gọi đại chúng đến phương trượng, nói lời từ biệt và xả báo an tường.

Ngài trụ thế 78 năm, 42 hạ lạp.

Theo hồi chuông trống Bát-nhã, chư Tăng tại Viện đồng thanh niệm Phật tiễn đưa Người cha lành trở về quê xưa cảnh cũ và viên thành hạnh nguyện.

Lễ cung tống kim quan cố Hòa thượng, được cử hành vào ngày mồng 1 tháng 11 năm Tân Mùi (6-12-1991). Bảo tháp lập tại chùa Huệ Nghiêm.

***

Hòa thượng Bửu Huệ đã hiến trọn cuộc đời thanh tu của mình cho chúng sinh và đạo Pháp. Hơn 40 năm không kể gian lao, chẳng từ khó nhọc, bằng tấm lòng từ bi vô ngã, bình đẳng vị tha, ngài đã tận tâm trong sự nghiệp đào tạo Tăng tài và dẫn dắt tín đồ Phật tử bước theo con đường Chánh pháp.

Về mặt tự độ, Hòa thượng là bậc chân tu thanh tịnh. Ngài thích cuộc sống ẩn dật tịch tĩnh nhàn cư, an trú trong chánh định của Thiền và tam muội của Phật hiệu. Với phương châm “Muốn độ tha thì trước hết phải tự độ”; cho nên, sau khi hoàn tất quá trình tham học, ngài trở về quê hương, dành 10 năm để kết thất tịnh tu, gội rửa não phiền, lau chùi gương tâm. Vì thương tưởng đến chúng sinh và để báo đền ơn Thầy Tổ nên ngài mới rời xa cảnh giới khinh an tịnh lạc của chánh định mà dấn thân vào con đường hoằng pháp độ sinh.

Về mặt độ tha, trong sự nghiệp giáo dục, Hòa thượng là bậc Thầy uyên bác và dày dặn kinh nghiệm, có tầm nhìn sâu rộng ở hiện tại và tương lai. Trải qua 25 năm, ngài đã cùng chư tôn đức đương thời đã giáo dưỡng và đào tạo cho Giáo hội Phật giáo những bậc đống lương, thạch trụ, giúp cho ngôi nhà Phật pháp thêm vững mạnh và trường tồn.

Nhân duyên với cuộc đời đã mãn, hạnh nguyện với chúng sinh đã vẹn tròn, Hòa thượng nhẹ gót về Tây, để niềm tiếc thương và sự mất mác to lớn đối với Giáo hội và hàng Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử.

Nam-mô Huệ Nghiêm đường thượng, tự Lâm Tế chánh tông tứ thập tam thế, húy thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ Đại lão Hòa thượng Giác linh thùy từ chứng giám.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm (1921-2000)
Danh Tăng

Hoà thượng Thích Thanh Kiểm, tên thật là Vũ Văn Khang, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1921 tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định Ngài xuất gia từ năm 15 tuổi và đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo Việt Nam. Ngài viên tịch vào ngày 30 tháng...

9 Đại Cao Tăng Lừng Danh Trong Lịch Sử Thái Lan
Danh Tăng

9 Vị thánh tăng nỗi danh nhất trong lịch sử phật học của Thái giai đoạn năm 1582 – 1981 Các thầy có thể coi là sư tổ của các sư thầy ngày nay có 1 tầm ảnh hưỡng rất lớn trong giáo hội phật giáo Nam Tông Thái Lan những người có phật pháp...

Tiểu sử Hòa thượng Thích Giải Quảng
Danh Tăng

Tiểu Sử Hòa Thượng THÍCH NHƯ NGHĨA tự GIẢI QUẢNG Khai Sơn: Chùa Quảng Hiệp, Xã Tân Hiệp, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, và Chùa Quảng Phước, xã Phước Thái, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai. Hòa Thượng Thích Giải Quảng, thế danh Trương Đình Ân, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1944 ( nhằm...

Bậc Thầy của những vị Thầy
Danh Tăng, Tuỳ bút, Văn học

Cách đây hơn hai mươi năm, vào khoảng cuối thiên niên kỷ trước, tôi có dịp gặp và trò chuyện với thầy Tuệ Sỹ lần đầu tiên. Tôi cùng đi với Đỗ Quốc Bảo, đến thăm thầy khi ấy đang ở trên một căn gác trong khuôn viên chùa Quảng Hương Già Lam. Lúc ấy thầy...

Những câu nói hay của Hòa thượng Thích Chơn Thiện
Danh Tăng

Trưởng lão Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Viện trưởng Học viện Phật giáo VN tại Huế, viên tịch ngày 8-11-2016 (9-10-Bính Thân) tại tổ đình Tường Vân (Thừa Thiên Huế).

Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh (1936-2024)
Danh Tăng

Trưởng lão Hòa thượng đã cống hiến trọn đời mình cho Đạo pháp và Dân tộc, ngài đã đóng góp nhiều công đức trong sự phát triển, ổn định của Phật giáo TP.Hồ Chí Minh. Là bậc Tông trưởng của Thiền Tịnh đạo tràng, ngài là bậc đống lương, nương tựa của tứ chúng, góp...

Hòa thượng Tâm An phụng sự Đạo pháp và Dân tộc
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Từ những buổi đầu Phật giáo suy vi, dân tộc chịu ách thống trị của thực dân Pháp, ngài tham gia cuộc chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ. Khi có Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngài tích cực tham gia phong trào Phật giáo Cứu Quốc. Dẫn nhập Phật...

Hòa Thượng Thích Viên Mãn (1922 – 2001) khai sơn chùa Kỳ Viên Quảng Nam
Danh Tăng

Hòa thượng thế danh Nguyễn Thanh Tịnh, pháp húy Tâm Trì, tự Chánh Không, hiệu Viên Mãn, sinh năm Nhâm Tuất (1922), trong một gia đình trung nông có truyền thống mộ đạo, nơi miền quê yên tỉnh thuộc thôn Dạ Lê, ngoại vi cố đô Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Thanh Bòng...

Hòa Thượng Thích Viên Quang – Vĩnh Thừa (Chùa Châu Lâm – Huế)
Danh Tăng

Hòa Thượng thế danh Nguyễn Hữu Ký, sinh ngày 20 tháng 11 năm Ất Dậu niên hiệu Thành Thái (1895), nguyên quán làng Đa Nghi, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị nhưng sinh trưởng tại làng Lang Xá Bàu, xã Thủy Thanh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn...

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Đàm (1924-2022) – Phó Pháp chủ GHPGVN
Danh Tăng

Cả cuộc đời của ngài sống hết mình, bình dân, giản dị, hòa nhã, nhẫn nhục, tuy rất nghiêm khắc với bản thân nhưng đối với tứ chúng lại khiêm cung hòa nhã và thường dạy các đệ tử noi gương Tổ Bách Trượng “ngày không làm thời cũng không ăn”. Phó pháp chủ Hội...

Trưởng lão Giác Chánh – Đệ nhị Tổ sư Phật giáo Khất Sĩ: Một đời nghiêm trì giới luật
Danh Tăng

Trưởng lão Giác Chánh là một trong những cao đồ của đức Tổ sư Minh Đăng Quang – người khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Trước khi vắng bóng, đức Tôn sư đã phó chúc cho Tỳ kheo Giác Chánh là người kế thừa trách nhiệm điều hành Tăng đoàn Khất Sĩ. Bởi thế về...

Tiểu sử Hòa thượng Thích Huệ Trí (1952-2024)
Danh Tăng

Hòa thượng Thích Huệ Trí (1952-2024) Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN; Phó Trưởng ban Ban Tăng sự Trung ương; Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nguyên Phó Chánh Văn phòng 2 Trung ương GHPGVN; Nguyên Trưởng ban Ban Pháp chế Trung ương; Nguyên Trưởng ban Ban Trị sự...

Sơ lược tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Đạt Thanh, Pháp chủ Giáo hội Tăng-già Nam Việt
Danh Tăng

Thời niên thiếu Đại lão Hòa thượng thượng Đạt hạ Thanh, pháp danh Như Thông, thế danh Võ Minh Thông, sau đổi tên là Võ Bửu Đạt. Ngài sinh vào giờ Ngọ, một ngày trong tiết Mạnh Xuân năm Đinh Sửu (1877), tại làng Tân Thới Thượng thuộc tổng Bình Thạnh Hạ, H.Bình Long, phủ...

Lược sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909 – 1984)
Danh Tăng

Hòa thượng húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Thích Trí Thủ. Hòa thượng sanh giờ Hợi ngày 19.9 năm Kỷ Dậu tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một dòng tộc nối đời sùng mộ Phật pháp. Hòa thượng thuộc thế hệ thứ tám của họ Nguyễn,...

Tiểu sử Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa(1918-1973)
Danh Tăng

I-THẾ TỘC: Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân...

Nguồn càng sâu – Dòng càng dài
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Tác giả bài viết: TT. Thích Tâm Hạnh* Tóm tắt: Tổ sư Liễu Quán ở tổ trên nhánh cây, ăn rong “sột soạt” mà thiền cơ dĩnh ngộ, xuất kệ lập nên thiền phái, đời đời nối thạnh. Từ xưa đến nay, bậc Tổ đức nào miên mật công phu, chứng ngộ, bảo nhậm rồi sáng...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.