Ngày 29-30 tháng 11 năm 2025
tại Tu Viện Đại Bi, Garden Grove, CA
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch chư Tôn đức Tăng, Ni,
Kính thưa quý Phật tử,
Một: Phương tiện vào đời để gieo hạt giống chứng tri
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ.
Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
Trong bài “Kính viếng Giác linh Đại Tỷ Thích Nữ Trí Hải”, hai câu cuối cùng Thầy viết:
“Heo hút bờ hoang ảnh giả,
Người sống mỏi mòn, trong nhớ tiếc không khuây.”
Thầy gieo từng hình ảnh: “heo hút”, rồi “bờ hoang”, và cuối cùng “ảnh giả”, làm người đọc choáng ngợp, chập choạng trước những hình ảnh đau thương, lẻ loi của cuộc đời. Đó là những hình dung từ của sự vật, của tiền trần – đối tượng của nhãn căn – phát sinh ra nhận thức.
Còn cảm thọ của tâm thì sao? “Người sống mỏi mòn” và “trong nhớ tiếc không khuây.” Người sống một cách lây lất, mỏi mòn, không thiết tha, mất hết năng lượng, chất liệu trưởng thành, mà như là liêu riêu, lụi tàn, tắt lịm… Ở nơi đâu? Trong tâm trạng nào? Trong tâm trạng “nhớ tiếc không khuây.”
Thầy đã lột trần cái cảm thọ của con người trong thế gian này: ấy là nỗi khổ, cái nỗi khổ muôn đời, cái nỗi khổ mãi mãi của những ai còn tham dục, còn khát ái trói buộc. Thầy đã đại diện cho tiếng nói thế nhân trong phạm trù thế tục đế – trong thân phận con người: sinh, lão, bệnh, tử; hay tiến trình sự vật: thành, trụ, hoại, không.
Đừng vội bi quan, dù rằng đó là hai câu kết. Chúng ta hãy chậm rãi trở lại bốn câu đầu.
Tại sao phải chậm rãi trở lại bốn câu đầu?
Trở lại để thấy một trời huy hoàng tinh thần tu chứng của bậc Đại sĩ – an nhiên, tự tại, vượt thoát của thế giới Chơn đế, xuất thế gian:
“Cánh chim đã vượt qua vũng lầy sinh tử,
Bóng nắng rọi lên dòng huyễn hóa.
Thân theo tro tàn bay,
Hoa trắng vỗ trên đại dương sóng cả.”
Chúng ta để tâm thanh thản, tâm thảnh thơi, tâm tỉnh thức, để thấy và nghe những âm ba đồng vọng, miên man chưa bao giờ dứt, chưa bao giờ vắng mặt trong cuộc đời này.
Như chư Phật, Bồ Tát vì chúng sinh mà thị hiện vào đời ngũ trược để hóa độ. Dù cuộc đời có đau thương cỡ nào, dù chúng sinh có cang cường ra sao, thì chư Phật, Bồ Tát vẫn luôn cận kề để hóa độ, trăm kiếp ngàn đời không bỏ chúng sinh.
Đây là thời điểm mà lòng của mình bình an, lắng nghe:
“Cánh chim đã vượt qua vũng lầy sinh tử.”
Chim là loài vật có đôi cánh, di chuyển trong không gian, lướt bay trong không khí. Thầy đã mượn hình ảnh “cánh chim” và “vũng lầy sinh tử” để nói lên tinh thần tu chứng của Giác linh Đại Tỷ.
Bậc Xuất trần Thánh giả ở đâu cũng là nhà, không phải vì vũng bùn lầy sinh tử mà không làm hạnh Bồ Tát. Vũng lầy sinh tử là vũng lầy sinh tử, còn cánh chim đã vượt qua là cánh chim đã vượt qua. Không phải vì đời khổ đau nghiệt ngã mà Giác linh Đại Tỷ không hòa quang đồng trần, thõng tay vào chợ để hóa độ chúng sinh.
Rồi sao nữa:
“Bóng nắng rọi lên dòng huyễn hóa,
Thân theo tro tàn bay.”
Dù là dòng huyễn hóa vô thường, bất thường hay chơn thường, phi thường – tâm Bồ Tát không phân biệt. Vì không phân biệt nên “bóng nắng rọi”. Bóng nắng là tự thể chân như, là tánh giác tu trì: bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm – luôn hiện hữu, bất động.
Thầy viết hai câu điếu:
“Bóng nắng rọi lên dòng huyễn hóa,
Thân theo tro tàn bay.”
Chúng ta có thể hiểu: Giác linh Đại Tỷ làm Phật sự trong thế gian mà không hệ lụy bởi thế gian; tự tại và tùy thuận theo thế gian để hiện thành sinh diệt. Nhưng “sanh nhi bất sanh, diệt nhi phi diệt.”
Và để từ đó:
“Hoa trắng vỗ trên đại dương sóng cả”
– là trò đùa của thế nhân, của hàng hữu học, của cái gọi là “bậc thánh của thế gian”.
Giác linh Đại Tỷ: “Đến rồi đi nước lững vơi đầy.”
Định luật tự nhiên theo tinh thần tu chứng: cái gì có sinh thì cái ấy có diệt. Diệt rồi sinh, sinh rồi diệt, trồi lên rồi hụp xuống – có chi đâu.
Do vậy mà cứ mỗi lần tiến cúng Giác linh, chúng ta nghe bài kệ thán:
“Vô thường thị thường,
Thế Tôn thượng Song Lâm diệt độ.
Diệt nhi phi diệt,
Đạt Mạ tằng chích lý Tây quy.
Sanh tử khứ lai,
Tử tùng hà khứ?”
Sống là từ đâu mà đến? Chết rồi thì đi về đâu?
Thầy đã chứng ngộ con đường dẫn vào Tuệ giác, nên viết thành đôi dòng điếu văn gởi lại cho người.
Hai: Duyên nghiệp của kiếp người phù du
“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy,
Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi.”
Có lẽ một đêm sâu nào đó, một hình hài đang đối diện một hình hài bên chồng sách cũ trong thư phòng, bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc, bên cánh rừng hoang, trên đồi trăng soi mờ mờ tỏ tỏ – hay một phương trời viễn mộng, một bước hài phiêu bồng nhân thế.
Thầy đã hạ bút viết: “Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy.”
Trong không gian của đêm dài, đêm sâu, đêm tĩnh lặng, hay tận cùng của tâm thức mà thấy được những cơn gió nghiệp chờn vờn, trêu ngươi, trên thân phận làm người. Nghĩa là bóng đen – nghĩa nào cũng là nghiệp.
Vì nghiệp là tạo tác: tạo tác của thân, của miệng, của ý. Chính vì vậy mà nghiệp là tài sản của mỗi người. “Phong phiêu” – gió thổi; gió thổi cái ảnh nghiệp chỉ là cái bóng, cái hình, cái lơ mơ, cái ẩn, cái hiện – vậy mà nó làm cho con người thất điên bát đảo, luân hồi trong ba cõi, xuống lên trong sáu đường.
“Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi khổ,
Tạo cấp niệm Di Đà.”

Hòa thượng Thích Nguyên Siêu, Phó Tổng Thư Ký Hội Đồng Hoằng Pháp, GHPGVNTN,
Trưởng Ban Tổ Chức Lễ Đại Tường Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ,
tại Tu Viện Đại Bi, Garden Grove, California – USA – 30 tháng 11 năm 2025
Bậc Đại trí nêu lên cái nghiệp, tu tập cái nghiệp, chứng đắc cái nghiệp vô lậu mà đắc thánh quả vị tối thượng.
Còn cái nghiệp của thế gian, quý Ngài tùy thuận, mặc cho “liễu lạc hoa phi”, không can cớ chi đến gót hài vô tung. Sống trong trần đời mà không để cho đời chi phối. Đi bằng đôi chân không mà chẳng dính bụi đường.
Nhưng tiếc thay đến đây thì ý thơ tắt lịm, nên sáng hôm sau Thầy gặp Bùi Giáng và nhờ làm tiếp dùm:
“Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Bùi Giáng đối với Thầy rất thân tình, giống như Đức Sơn. Bùi Giáng sống lang thang trong phố thị, trong các sân chùa Vạn Hạnh thời ấy; còn Đức Sơn thì sống trên núi – Phương Bối am – bềnh bồng trên chiếc võng, nghêu ngao dưới rừng cây. Ấy là những tư tưởng lớn, những nhà thơ lớn của thời đại.
Một tâm sự phiêu bồng để ứa giọt lệ khô. Bùi Giáng cho rằng Thầy đang cưu mang một tâm sự: Tâm sự phiêu bồng, Tâm sự Giấc Mơ Trường Sơn, Tâm sự Phương Trời Viễn Mộng, Tâm sự Ngục Trung Mị Ngữ, Tâm sự Thiên Lý Độc Hành.
Tại sao Bùi Giáng đoán biết được như vậy? Vì sau này Thầy đã dấn thân trong những cuộc phiêu bồng như thế:
“Bên cửa sổ, bên kia đồi sao mọc,
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu.”
Hay:
“Năm chày đá ngủ lòng khe,
Lưng trời cánh hạc đi về hoàng hôn.”
“Một lần đi là vĩnh viễn con tàu.” Đi để thấy đá ngủ nơi lòng khe suối, để thấy cánh hạc lưng trời đi về trong đêm, để thấy bên kia đồi sao mọc. Nếu không đi, không phiêu bồng thì làm sao thấy được những hình ảnh trên đỉnh cao sông dài, biển rộng.
Tính phiêu bồng của Thầy – như thị!
Có phiêu bồng như thế mới thấy Đạo pháp đang cần người hoằng dương, gìn giữ, và hộ trì trên dòng chảy của chư vị Lịch đại Tổ sư hai nghìn năm qua.
Có phiêu bồng như thế mới thấy được quê hương, dân tộc đang bị đọa đầy, điêu linh, thống khổ – đang cần những đôi tay, tấm lòng hộ pháp, hộ quốc, hộ dân.
Một biển học mênh mông, biển Phật pháp vô bờ. “Trí Hải” – “Phật pháp như đại hải thủy, lưu nhập A Nan tâm.”
“Trí Hải” là tên của một Ni Trưởng, sở học Phật pháp mênh mông như biển, chẳng thua chi Thầy. Trước tác, phiên dịch, thi ca, tư tưởng, một trời ngoại ngữ – chỉ bấy nhiêu thôi cũng làm rối loạn lòng ai.
Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Trí Hải… là những bậc Thầy lớn của thời đại – của Đại học Vạn Hạnh thời xưa.
Ba: Tiểu khúc Phật Đản, hay nội hàm tự tướng sinh – già – bệnh – chết, kiếp người mong manh
Trọn bài thơ tất cả là 24 câu, chúng tôi xin phép đọc bốn câu cuối thôi. Bốn câu cuối là kết thúc Tiểu khúc Phật Đản, mà Thầy đã chấp bút bằng chữ Nôm:
“Thời gian vỗ cánh ngang đầu,
Sanh, già, bệnh, chết tránh đâu vận cùng.
Khổ đau là khối tình chung,
Ai nâng cõi thế qua bùn tử sinh.”
Như là một lời khẳng định trên tinh thần thật chứng kiếp sống phù sinh.
Thời gian cứ mãi trôi, cứ mãi qua, cứ mãi đi, cứ mãi xuôi về mà không bao giờ trở lại. Thời gian vỗ cánh bay cao – chỉ “vỗ cánh ngang đầu.” Đối với thân người, “vỗ cánh ngang đầu” là cao lắm rồi.
Chỉ ngang đầu để người được dễ thấy, dễ nghe, để mà tu, vì thời gian là vô thường – không hẹn một ai.
Cái mà sinh ra, mà già nua, mà bệnh hoạn, mà chết đi, nào ai có biết để mà hẹn. Đúng là thân phận của một đời người chỉ quanh quẩn với cái nghiệp mà mình đã tạo ra – không chạy trốn đâu cho khỏi. “Vận cùng.”
Chính cái “vận cùng” này là kết quả của sự khổ đau chẳng riêng gì một ai, mà là một “khối tình chung.”
Thầy gởi gắm lại cho chúng ta biết: nỗi khổ đau là khối tình chung, ấy vậy mà chẳng mấy ai biết.
Vô minh còn khiến con người làm khổ nhau nhiều hơn nữa:
“Mạnh hiếp yếu, kẻ hiền thua dữ,
Ở trên đời chẳng chữ công bình.”
Như người ngồi trên đỉnh núi cao nhìn xuống thung lũng, đồng bằng, thấy rõ từng sự vật đang chuyển động theo định luật vô thường sinh – trụ – dị – diệt, mà la lên:
“Ai nâng cõi thế, ai vác cuộc đời này,
Để vượt qua vũng bùn tử sinh?”
Sống và chết là vũng bùn lầy, nó kéo chân con người – chúng sinh – vô lượng kiếp.
Một thứ ngôn ngữ, chữ nghĩa, một ý vị triết lý tư duy được hiển bày như là sở chứng – thấy rõ tận ngọn nguồn, đã được tồn đọng trong đôi mắt sâu, trên vầng trán cao, trong khối óc mẫn tiệp, trí tuệ vượt trội – trong “Tiểu khúc Phật Đản.”
Chính câu kết này:
“Ai nâng cõi thế qua bùn tử sinh.”
Thầy cho chúng ta hiểu: chỉ có Phật mới nâng cõi thế này qua bùn tử sinh.
Phật thuyết giảng giáo pháp, trao truyền lại cho con người, rồi con người y cứ, lập cước trên nền tảng ý chỉ giáo pháp ấy để tu, để vượt thoát bùn sinh tử – chứ chẳng ai khác.
Tóm lại, nhân ngày Lễ Đại Tường của Thầy, con rỉ rả đôi điều, chắc Thầy cười – như tiếng cười trên tháp sắt đồi Trại Thủy Hải Đức Nha Trang vào những chiều êm gió năm xưa; hay ngồi dưới bệ Kim Thân Phật Tổ mà Thầy kể chuyện tiếu nhà thiền, anh em học tăng vây quanh Thầy mà không thể nhịn cười được; còn Thầy thì kéo hai ống quần tới đầu gối, thoải mái – tình Thầy trò của một thời bụi đường phủ kín.
Giờ đây đâu còn những hình ảnh ấy nữa, Thầy đã về với Phật, còn lũ chúng con còn rong ruổi theo nghiệp duyên.
Kính lạy Giác linh Thầy, thùy từ chứng giám.
Trân trọng kính cảm ơn và kính chào toàn thể liệt quý vị.
San Diego, California – ngày 30 tháng 10 năm 2025
Chùa Long Sơn
Thích Nguyên Siêu

