THƯỢNG TỌA
(Tạp A-hàm, kinh số 1071)

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ. Bấy giờ có tỳ-khưu tên là Thượng Tọa, chỉ thích sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình.

Bấy giờ có một số tỳ-khưu đi đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên, bạch với Ngài:

“Bạch Thế Tôn, có tôn giả tên là Thượng Tọa chỉ thích sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình.”

Đức Thế Tôn bảo một vị tỳ-khưu:

“Ông hãy đến chỗ tỳ-khưu Thượng Tọa và nói rằng Ta gọi ông ta.”

Vị tỳ-khưu ấy vâng lời Phật dạy, đến nói lời như trên với tỳ-khưu Thượng Tọa. Tỳ-khưu Thượng Tọa liền đi đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên. Thế Tôn hỏi tỳ-khưu Thượng Tọa:

“Có phải ông chỉ thích sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình chăng?”

Tỳ-khưu Thượng Tọa đáp:

“Bạch Thế Tôn, thật như vậy.”

Phật hỏi tỳ-khưu Thượng Tọa:

“Ông sống một mình như thế nào?”

Tỳ-khưu Thượng Tọa đáp:

“Con sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình. Chỉ thế thôi.”

Phật dạy:

“Ông đúng là người thích sống một mình, Ta không nói là chẳng phải sống một mình. Nhưng có lối sống một mình cao thượng hơn. Vì sao gọi là lối sống một mình cao thượng? Đó là tỳ-khưu quán chiếu để thấy rằng quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, an nhiên sống trong hiện tại mà không bị vướng mắc vào các tham dục. Đó là vị tu sĩ với tâm không còn do dự, bỏ hết mọi lo âu, xa lìa mọi tham dục, đoạn tận các kết sử. Đây mới là thật sự sống một mình, không có lối sống nào cao thượng hơn nữa.”

Rồi đức Thế Tôn nói lên bài kệ:

Quán chiếu vào cuộc đời,  
thấy rõ được vạn pháp, 
không chấp vào pháp nào, 
lìa xa mọi ái nhiễm.
Sống an lạc như thế, 

tức là sống một mình.

Phật giảng xong, tôn giả Thượng Tọa hoan hỷ đón nhận lời Phật dạy, cung kính đảnh lễ cáo từ.

VỊ TỲ-KHƯU TÊN THERA
(Theranāmaka Sutta, SN 21.10)

Một thời, Thế Tôn trú ở Trúc Lâm gần thành Vương Xá, tại nơi nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ có một tỳ-khưu tên là Thera (Trưởng Lão, Thượng Tọa) sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú. Vị ấy đi vào làng khất thực một mình, đi về một mình, ngồi vắng lặng một mình, và đi kinh hành một mình.

Rồi có nhiều vị tỳ-khưu đi đến gặp Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên, rồi  bạch Thế Tôn:

“Bạch Thế Tôn, có vị tỳ-khưu tên là Thera sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú.

Thế Tôn bảo một tỳ-khưu:

“Này tỳ-khưu, hãy đến gặp ông ấy và nói Ta gọi ông ấy.”

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, vị tỳ-khưu vâng đáp rồi đi đến gặp tỳ-khưu Thera và nói:

“Này hiền giả Thera, bậc Đạo Sư gọi hiền giả.”

“Thưa vâng, hiền giả.” Tôn giả Thera vâng đáp tỳ-khưu ấy và đi đến gặp Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn hỏi tôn giả Thera:

“Có thật chăng, này Thera, ông sống độc trú và tán thán hạnh độc trú?

“Vâng, đúng như thế, bạch Thế Tôn.”

“Như thế nào, này Thera, ông sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú?”

“Bạch Thế Tôn, con đi vào làng khất thực một mình, con đi về một mình, con ngồi vắng lặng một mình, rồi con đi kinh hành một mình. Đó là cách con sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú.”

“Đó là sống độc trú, này Thera, Ta không nói không phải vậy. Tuy nhiên, có một cách làm viên mãn sống độc trú đầy đủ với các chi tiết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.”

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

“Này Thera, thế nào là độc trú được làm viên mãn với đầy đủ các chi tiết? Ở đây, cái gì thuộc quá khứ thì đoạn tận; cái gì thuộc tương lai thì từ bỏ; ngã ái và dục ái trong hiện tại được nhiếp phục. Như vậy, này Thera, là độc trú được làm viên mãn với các chi tiết.”

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Xong rồi, Thiện Thệ, bậc Đạo Sư lại nói thêm:

Ai chiến thắng tất cả,
Ai hiểu biết tất cả,
Ai là bậc thiện trí,
Mọi pháp không ô nhiễm.
Ai từ bỏ tất cả,
Ái tận, được giải thoát,
Ta nói chính người ấy,
Thật là vị độc trú.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Du Già Bồ Tát Giới Bổn – Di Lặc Bồ Tát Tuyên Thuyết
Luật, Phật học

Các vị Bồ tát! sau khi đã thọ lãnh giới pháp thanh tịnh của Bồ tát, phải nên tự mình thường thường chuyên tâm cẩn thận suy ngẫm: “Đây là chỗ Bồ tát nên làm, đây là chỗ Bồ tát không nên làm”. Suy ngẫm như vậy rồi, vì muốn thành tựu công hạnh Bồ tát, cần phải siêng năng tu tập, lại phải chú ý lắng nghe tạng Tố đát lãm, và tạng Ma đát...

Nhân sinh quan theo quan niệm Phật giáo
Luận, Phật học

Trước khi bắt đầu, tôi xin hướng về thành phần Phật tử trong cử tọa hôm nay để nhắc nhở một điều quan trọng, đó là thái độ cần có khi nghe giảng Phật pháp. Quí vị cần ngồi nghe với tâm nguyện thật trong sáng. Lý do chúng ta ngồi đây hôm nay, trao...

Người xuất gia lý tưởng theo kinh Trung A-hàm
Luận, Phật học

A. DẪN NHẬP Xuất gia theo đạo Phật là một việc cao cả và không nhiều người làm được, tuy nhiên, một người đã phát bồ-đề tâm quyết chí xuất trần, nếu không gặp thuận duyên từ môi trường sống, cộng đồng Tăng lữ, hay không có vị bổn sư co khả năng hướng dẫn...

Long Thọ Và Khoa Học Lượng Tử
Luận, Phật học

Trong thế giới thường nghiệm, con người quen sống theo một thói quen lấy cá nhân làm trung tâm qui chiếu mọi nhận định, đó là một định chế đã được huân tập từ ngày con người xuất hiện. Quan niệm định chế này còn được củng cố bằng thế giới khoa học nhị nguyên chỉ thấy vũ trụ rất trật tự, gọi là quan điểm Cartesian dualism. Trong một thế giới khoa học rất cụ thể và trật tự rõ ràng như thế, thì quả thật khái niệm vô ngã và tính không bất định của giáo...

Phật thuyết kinh Bà-la-môn mất con
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP “Từ bao đời kiếp, chúng ta đã đổ nước mắt vì người thân quá nhiều: hãy để mình và người thân đừng chìm ngập trong nước mắt ấy nữa.” – đức Phật đã dạy như vậy. Vì dòng nước mắt ấy luôn chất chứa tình yêu luyến ái, chảy ra vị mặn của bi...

Tư tưởng duy tâm trong Kinh Lăng-già
Kinh, Phật học

1. DẪN NHẬP Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh Pháp Lăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923) được ghi chép như sau: Nanjō. 375: इत्यार्यसद्धर्मलङ्कावतारो नाम महायानसूत्रं सगाथकं समाप्तमिति॥ ityāryasaddharmalaṅkāvatāro nāma mahāyānasūtraṃ sagāthakaṃ samāptamiti || (Kết thúc chương chỉnh cú của bản...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Hiểu biết về Tánh không
Luận, Phật học

Việc học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng. Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ là toát yếu sơ lược. Điều vô cùng quan yếu là phải hiểu “Tánh không” có nghĩa là gì. Lại cũng quan trọng để biết Tánh không ở ngay trong tâm mình,...

Một Thời Truyền Luật
Luật, Phật học

Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy, vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ...

Tư tưởng Tam giáo nhất trí luận trong tác phẩm Lý Hoặc Luận
Luận, Phật học

Tóm tắt: Lý Hoặc Luận (理惑论) là một tác phẩm của thời kỳ đầu Phật giáo truyền vào Trung Quốc, do một học sĩ tên là Mâu Tử (Mâu Bác) trước tác. Nội dung chính là giảng giải và lý luận về Phật giáo ngoại lai, nhằm kết hợp Phật giáo với tư tưởng Nho giáo và...

Giảng kinh Phước Đức
Kinh, Phật học

PHẦN 1 (Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng ngày 29.12 tại chùa Cam Lộ – Xóm Hạ trong thiền đường Hội Ngàn Sao trong mùa An Cư 2009-2010) Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng...

Tìm hiểu tư tưởng bình đẳng của Phật giáo qua tác phẩm Khoá Hư Lục
Luận, Phật học

DẪN NHẬP Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vào thời Trần, vua Trần Thái Tông đã tỏ ngộ lý thiền, thắp lên ngọn đuốc chân lý, soi đường cho người hữu duyên cùng tiến lên trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong số các trước tác của ngài, tác phẩm Khóa hư lục chứa đựng...

Duyên khởi và ý nghĩa của Kiết hạ An cư
Kiến thức, Luật, Phật học

Theo luật Tứ phần[1] duyên khởi của Ðức Phật qui định mùa an cư của chúng tỳ kheo xảy ra khi Ngài đang trú tại Xá Vệ, trong vườn của Ông Cấp Cô Ðộc. Nguyên do của việc chế định này là bởi vì sự than phiền của các người cư sĩ đối với nhóm 6...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Năm Và Sáu
Luật, Phật học

LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon – tại vị từ 1853 – 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Tư
Luật, Phật học

I– Thuyết thứ nhất Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Ba
Luật, Phật học

Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ . Vua...