Đức Phật không dạy đệ tử mù quáng tin, ngay cả các tầng định khi thiền, mà luôn yêu cầu tự quán sát, tự chứng nghiệm, tránh rơi vào cực đoan tín ngưỡng.

Phần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung Chuyển

“Có bốn như ý túc này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn. Tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, này các Tỷ-kheo, bốn như ý túc này có quả lớn, có lợi ích lớn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành (nghĩ rằng): “Như vậy, dục của ta sẽ không có quá thụ động, sẽ không có quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài, an trú với tưởng trước sau đồng đẳng…”

Như vậy, với tâm rộng mở, với tâm không gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm… tinh tấn định… tâm định… tu tập như ý túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành (nghĩ rằng): “Như vậy, tư duy của ta sẽ không quá thụ động.” Như vậy, với tâm rộng mở, với tâm không gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là dục quá thụ động? Dục nào, này các Tỷ-kheo, đi đôi với biếng nhác, tương ưng với biếng nhác, này các Tỷ-kheo, đây gọi là dục quá thụ động.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là dục quá hăng say? Dục nào, này các Tỷ-kheo, đi đôi với trạo cử, tương ưng với dao động, này các Tỷ-kheo, đây gọi là dục quá hăng say.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là dục bị co rút phía trong? Lòng dục nào, này các Tỷ-kheo, đi đôi với hôn trầm thụy miên, tương ưng với hôn trầm thụy miên, này các Tỷ-kheo, đây gọi là dục bị co rút phía trong.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là dục bị phân tán phía ngoài? Lòng dục nào, này các Tỷ-kheo, hướng về phía ngoài, duyên năm dục công đức, bị phân tán, bị phân ly, này các Tỷ-kheo, đây gọi là dục bị phân tán phía ngoài.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo trú với tưởng trước sau đồng đẳng, trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tưởng trước sau của Tỷ-kheo được khéo nắm lấy, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập với trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, trú với tưởng trước sau đồng đẳng, trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo trú dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào thời dưới như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán thân này, từ bàn chân trở lên, từ đầu tóc trở xuống, bao bọc bởi da, đều đầy những vật bất tịnh; thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, dây gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo trú ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ban ngày tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành, với hành tướng, đặc tướng, nhân tướng gì, thời ban đêm vị ấy tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành, với hành tướng, đặc tướng, nhân tướng ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo trú ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo với tâm rộng mở, với tâm không gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, quán tưởng của Tỷ-kheo, được khéo nắm lấy, tưởng ban ngày được khéo an trú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo với tâm rộng mở, với tâm không gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.

Ảnh minh họa thiết kế bởi AI - Tạp chí Nghiên cứu Phật học
Ảnh minh họa thiết kế bởi AI – Tạp chí Nghiên cứu Phật học

Phần II. Luận giải đoạn kinh

Trong tiếng Pāli, iddhipāda được tạm dịch là “nền tảng của năng lực”. Từ iddhi vốn được hiểu là thần lực, thần thông, dẫn đến việc cụm iddhi-pada đôi khi được hiểu là nền tảng của thần thông. Nhưng trong nghĩa gốc lại chỉ năng lực phát sinh từ tâm định. Pāda nghĩa là chân, nền tảng, cơ sở, bàn đạp,… Vậy iddhipāda không chỉ là “căn bản của thần thông” mà chính là bốn cơ sở tâm lý khiến tâm có năng lực siêu việt, vượt lên sự dao động, lười nhác và hôn trầm.

1. Dục Như ý túc là động lực nhận thức

Trong ngôn ngữ Phật học, dục không đơn thuần hoàn toàn mang nghĩa dâm dục hay khát vọng vật chất, mà là ý chí muốn thành tựu. Đây là nguồn năng lượng đầu tiên trong tiến trình tu tập. Nếu không có “muốn”, thì không có khởi động; nhưng nếu “muốn” sai, thì tâm trở thành vọng động. Vì thế đức Phật dạy phải điều tiết dục, khiến dục trở thành “dục thiện”, chứ không là “dục ái”.

Ngài chỉ rõ bốn trạng thái sai lệch của dục:

(1) Dục quá thụ động: khi tâm bị sự biếng nhác che phủ, không khởi động.
(2) Dục quá hăng say: khi tâm bị trạo cử, nôn nóng cầu thành.
(3) Dục co rút phía trong: khi tâm bị hôn trầm, rút vào trạng thái trì trệ, uể oải.
(4) Dục phân tán phía ngoài: khi tâm bị ngũ dục lôi kéo.

Ở đây, đức Phật không chỉ nêu bốn loại tâm lý sai lệch, mà còn mô tả chính xác bốn dạng rối loạn của trạng thái tâm lý một con người bình thường, tương đương trong ngôn ngữ tâm lý học hiện đại là: thiếu động lực, quá khích, mê mệt, và phân tán chú ý.

Ngài khuyên: “An trú với tưởng trước sau đồng đẳng”, nghĩa là giữ sự quân bình của dòng tâm, không để năng lượng lệch về một cực nào. Hành giả biết nắm lấy tưởng một cách khéo léo, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập với trí tuệ tức là biết điều tiết năng lượng mong cầu bằng chính tư duy, tự cải tổ cách suy nghĩ của bản thân mình theo vì bị cuốn theo đối tượng trong tưởng.

2. Tinh tấn Như ý túc là năng lượng duy trì

Nếu dục là khởi ý muốn, thì tinh tấn là nhiên liệu cháy liên tục. Trong tiến trình tâm lý, đây là ý chí duy trì, giúp hành giả không rơi vào chu kỳ hưng phấn rồi chán nản, mà giữ một đường thẳng ổn định của tinh thần. Từ góc độ khoa học thần kinh, tinh tấn tương ứng với khả năng ổn định, điều hòa dopamine nội sinh, giúp con người duy trì động lực dài lâu mà không kiệt sức. Đức Phật với ngôn ngữ Ấn cổ thì thuyết rằng phải “được tu tập, được làm cho sung mãn”, tức không bạo động, không cưỡng ép.

Khi đức Phật dạy quán thân gồm 32 thể trược, Ngài không nhằm sinh tâm chán ghét thân, mà là giúp hành giả tinh tấn trong việc duy trì tư duy quán chiếu. “Trên thế nào, dưới như vậy” là hình ảnh của bình đẳng, không buông lung của pháp quán.

3. Tâm Như ý túc

Tâm là dòng liên tục của nhận biết, gồm cảm thọ – tưởng – tư. Tu tập Như ý túc này là huấn luyện hệ thống nhận thức trở nên linh hoạt, trong sáng, không bị chướng ngại bởi cảm xúc. Đức Phật gọi đó là “tâm rộng mở, không gò bó, chói sáng”.

“Tâm rộng mở” là tâm không bị bản ngã ràng buộc; “tâm không gò bó” là tâm không bị khái niệm ép khuôn; “tâm chói sáng” là tâm không bị vô minh che phủ. Ba đặc tính này diễn tả trạng thái nhận thức thuần khiết, nơi các tiến trình cảm giác – tri giác – tư duy hoạt động trong sự tĩnh lặng mà sáng tỏ. Khi chính định và chính niệm được tu tập, tâm có một năng lực nhận thức tinh khiết, phản chiếu vạn pháp mà không vướng mắc.

4. Tuệ Như ý túc

Hay chính là trạng thái Như ý túc của tư duy, năng lực phân tích, quán chiếu, xét nghiệm. Nếu ba Như ý túc trước là động lực, năng lượng, và nền tảng, thì tuệ là điều cần để quân bình các trạng thái tâm lý trước các biến động ngoại cảnh biến thiên liên tục. Đức Phật không dạy đệ tử mù quáng tin, ngay cả các tầng định khi thiền, mà luôn yêu cầu tự quán sát, tự chứng nghiệm, tránh rơi vào cực đoan tín ngưỡng. Tuệ Như ý túc chính là chính tư duy trong Bát Chính Đạo, có chức năng định hướng cho năng lượng tâm không bị lạc vào chấp ngã hay chấp pháp.

Kết luận

Trong kinh, Phật thuyết con đường đưa đến tu tập Tứ như ý túc là “… Thánh đạo tám ngành, tức là chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định…”

Nghĩa là cội nguồn của mọi năng lực tâm linh không nằm ngoài con đường Trung đạo này. Bát Chính Đạo không là khuôn phép đạo đức hay lộ trình tu tập riêng biệt, mà chính là nền tảng sinh khởi của Tứ Như ý túc, nơi các yếu tố dục, tinh tấn, tâm và tư duy được nuôi dưỡng, điều hòa và soi sáng bởi trí tuệ giải thoát.

Chính tri kiến giúp hành giả thấy rõ mục đích của dục là hướng đến thiện pháp, không rơi vào ái dục; chính tư duy giúp điều hòa năng lượng tinh tấn không thiên lệch; chính niệm làm cho tâm luôn tỉnh giác, không phóng dật; và chính định khiến tư duy trở nên trong sáng, ổn định. Và chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng đều là sự biểu hiện của tuệ như ý túc. Đó là chu trình tương tức của định và tuệ.

Cư sĩ Phúc Quang


Tài liệu: Kinh Tương ưng bộ, Chương 7: Tương ưng như ý túc, II: Phẩm lầu rung chuyển, Dịch giả: HT.Thích Minh Châu.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận
Luận, Phật học

Qua Trung Quán Luận của Long Thọ giới thiệu rõ, sự ra đời, văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết học tư tưởng Trung đạo, kết cấu của Trung Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song cách phân chia kết cấu có khác nhau… Long Thọ (Nagarjuna)...

Phật thuyết nhất thiết Như Lai danh hiệu Đà La ni kinh
Kinh, Phật học

Hán dịch: Pháp Hiền Đại Sư phụng chiếu dịch Việt dịch: Cư sĩ Nguyện Huy dịch sang Việt văn Hòa thượng Thích Như Điển chứng nghĩa Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại Pháp dã đại Bồ Đề Đạo tràng ở nước Ma Già Đà. Khi vừa thành Chánh giác, có các chúng Bồ...

Phật thuyết kinh ‘Làm con năm người Mẹ’
Kinh, Phật học

Dẫn nhập “Một vật sinh ra, cái gì đích thân cho nó cường lực, đó gọi là Nhân; cái gì thêm thắt nhược lực vào thì gọi là Duyên” Phải chăng Đại tạng kinh Nam (cảo bản) lâu nay khép mình chùa Long Sơn Nha Trang, từ khi Hòa thượng Đỗng Minh thuận thế vô...

Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên
Luật, Phật học

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ...

Bản thể luận Phật giáo trong kinh A Di Đà
Kinh, Phật học

Cũng vậy, Thực tướng hay bản thể tối hậu trong kinh A Di Đà chính là một chỉnh thể bao gồm cả tính không (bản thể) và tính có (hiện tượng). Hai mặt mày là cùng một thể không tách rời. Trong hệ thống tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa, bản thể luận...

Giới thiệu kinh Kim Cang
Kinh, Phật học

GIỚI THIỆU KINH KIM CANG Edward Conze Dịch Việt: Nhuận Châu từ Vajracchedikā Prajñāpāramitā do Edward Conze biên tập và phiên dịch Mục lục bài viếtPhần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung ChuyểnPhần II. Luận giải đoạn kinh1. Dục Như ý túc là động lực nhận thức2....

Hạnh Phúc Bởi “Không”
Luận, Phật học

Trong dòng chảy hối hả của cuộc đời, hầu như ai cũng từng tin rằng hạnh phúc là phải “có thật nhiều”, mà quên mất rằng chính cái “Có” ấy lại là ngọn nguồn của muộn phiền. Chúng ta mặc định rằng, hạnh phúc là khi mình “Có”: có một căn nhà khang trang, có chiếc xe sang trọng, có thật nhiều tiền bạc,...

Khái niệm Phật độ qua kinh điển
Kinh, Phật học

Mục lục bài viếtPhần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung ChuyểnPhần II. Luận giải đoạn kinh1. Dục Như ý túc là động lực nhận thức2. Tinh tấn Như ý túc là năng lượng duy trì3. Tâm Như ý túc4. Tuệ Như ý túcKết luậnDẪN NHẬP Ngược...

An Cư Kiết Hạ Theo “Tứ Phần Luật”
Luật, Phật học

An cư là chế định quan trọng trong đời sống tu tập của Tăng đoàn Phật giáo, giúp tăng sĩ ổn định tinh thần và thân thể để chuyên tâm tu học. Trong Tứ phần luật và các bộ luật Phật giáo nguyên thủy, an cư thể hiện sự quy củ, thanh tịnh của tăng...

Giới luật cư sĩ trong kinh điển Pali
Luật, Phật học

Giới luật dành cho người cư sĩ trong kinh điển Pāli, đặc biệt được làm rõ trong kinh Sigālovāda và được soi sáng bởi các nguyên lý như trung đạo, tâm từ, nghiệp và tinh tấn, không chỉ đơn thuần là những quy tắc đạo đức khô khan. Tóm tắt: Bài viết này khảo sát nền...

Sáu điểm tương đồng và hai điểm khác biệt trong ba bộ Kinh Tịnh Độ
Kinh, Phật học

Ba bộ Kinh Tịnh Độ là những bản kinh nền tảng của Tịnh Độ tông, một pháp môn Phật giáo quan trọng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, với mục đích duy nhất là dẫn dắt chúng sinh phát nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà...

Từ tín ngưỡng đến bất hoại tín
Kinh, Phật học

Trong xã hội công nghệ hiện đại ngày nay, trước làn sóng thông tin đa chiều, với vô số tin tức, hình ảnh báo chí thật hư lẫn lộn, nhiều kẻ lừa đảo, mượn đạo tạo đời, tự đánh bóng mình bằng các chiêu trò lừa bịp tinh vi, nhắm vào tâm lí ủy mị,...

Vay Trả Trả Vay (Tâm Lý Học Siêu Hình Của Phật Giáo)
Luận, Phật học

“Vay trả, trả vay” là công năng, hoạt dụng và địa vị của thức (năng-hoạt-vị thức) biến chuyển khiến vòng saṃsāra (luân hồi) luôn tiếp diễn. Có lẽ chúng ta chẳng ngỡ ngàng gì với nghi vấn: “Sau khi chết là hết?” hay “sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?”, mà nó đã quá xa xưa và cổ hủ đối với người phương Đông nói chung...

Phương pháp quán chiếu duyên khởi
Luận, Phật học

Đối với pháp Mười hai duyên khởi, Kinh và Luận dạy ta thực hành hai pháp quán. Một là lưu chuyển và hai là hoàn diệt. Mục lục bài viếtPhần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung ChuyểnPhần II. Luận giải đoạn kinh1. Dục Như ý túc...

Kinh Quán Niệm Hơi Thở | Thích Nhất Hạnh dịch
Kinh, Phật học, Sách PDF

KINH QUÁN NIỆM HƠI THỞ Thích Nhất Hạnh dịch Tôi nghe như sau: Hồi đó, Bụt còn ở tại nước Xá Vệ, cư trú trong vườn Kỳ Thọ với nhiều vị đại đệ tử nổi tiếng như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Thi La, A Nậu Lâu Đà, Ưu Bà Đa, A Nan Đà, v.v… Trong cọng đồng các vị khất sĩ, những vị trưởng thượng lo...

Nhập Trung Quán Luận
Luận, Phật học

NHẬP TRUNG QUÁN LUẬN Nguyệt Xứng (Candrakīrti, 560-640) TÀI LIỆU GIÁO KHOA TU HỌC Huynh Trưởng bậc Lực Gia Đình Phật Tử Việt Nam THÍCH NHUẬN CHÂU biên dịch LỜI DẪN Nhập Trung quán, là đi vào tinh thần Trung đạo, siêu việt các cực đoan có, không, như trong bài kệ Bát bất của...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.