Thầy Thích Thái Hòa giảng tại trường Hạ chùa Vạn-đức, Thủ-đức, Phật lịch 2564

 I. Im lặng

1- Pháp môn Tịnh độ được thiết lập trên nền tảng của Tịnh giới

Chúng ta muốn công cụ Tịnh độ thành công nên phải đặt nền tảng của Tịnh giới. Bởi vì, thế giới Tịnh độ của Phật Phật nói chung và thế giới Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà nói riêng, đều được thiết lập trên nền tảng của Tịnh giới. Tịnh giới có loại ba chủng: Chủng loại thứ nhất là Kỷ luật pháp, loại thứ hai là Nhiếp thiện pháp giới và loại thứ ba là Nhiêu ích hữu tình giới.

Như vậy, Tịnh độ của Phật mười phương và Đức Phật A-di-đà đều thiết lập trên nền tảng của Tịnh giáp. Cho nên không có Tịnh giới là không bao giờ có Tịnh độ, bởi vì thế giới Tịnh độ là thế giới mà không có ba đường ác ác (địa ngục, ngạ quỷ và hoàn toàn sinh). Như đại nguyện thứ nhất trong bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A-di-đà khi hành Bồ tát đạo, Ngài đã nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, cõi nước Tịnh độ của tôi không có ba đường dữ xấu ác là địa ngục, ngạ quỷ và chất sinh”.

Tại sao Tịnh độ của Phật A-di-đà không có ba đường ác đó? Tại vì thiên vương, nhân loại ở nơi thế giới Tịnh độ của Phật A-di-đà hay là những chư thiên, nhân loại trong mười phương phương muốn sanh về thế giới Tịnh của Phật A-di-đà toàn là những người không gieo nhân xấu, không gieo nhân ác, không tạo ra nghiệp ác, cho nên thế giới Tịnh độ của Phật A-di-đà không có ba đường ác ác là địa ngục, ngạ quỷ và hoàn sinh. Vì sao không có ba con đường đó? Bởi vì không có ai tạo ác nghiệp để có cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, sừng sanh.

Và nguyện thứ hai trong bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A-di-đà còn nguyện rằng: “Các vị chư thiên, nhân loại trong mười phương phương sanh về nước tôi rồi thì không còn đọc lại lạc ở trong địa ngục, ngạ quỷ và sức sinh”.

Cho nên, thế giới Tịnh độ là thế giới mà không có ba đường ác ác và không có ý nghĩ về ác ác, do đó thích ứng với loại thứ nhất là Nhiếp luật nghi giới. Nghĩa là chủng loại Giới đình chỉ hết điều thiện thuộc về thân, ngữ và ý. Thận trọng, Phật giáo A-di-đà được xây dựng trên nền tảng pháp luật bảo vệ.

Thế giới Tịnh độ của Phật A-di-đà tu tập càng ngày càng tiến lên qua tấn căn, tấn lực, cho nên từ thiện của thế giới con người, tiến lên cái thiện của thế giới thiên thiên; rồi từ cái thiện của thế giới chư thiên, tiến lên cái thiện của các bậc Thanh văn; rồi cái thiện của các bậc Thanh văn, tiến lên cái thiện của các bậc Duyên giác; rồi cái thiện của các bậc Duyên Giác, tiến lên cái thiện của các bậc Bồ tát, cho đến Bồ tát Nhất sanh bổ sung xứ, và cho đến cái thiện hoàn hảo của Phật. Do đó, Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà được xây dựng trên nền tảng loại giới thứ hai là thiện pháp giới.

Chủng loại Giới thứ ba là Nhiêu ích hữu tình giới. Tại sao đức Phật A-di-đà hành Bồ tát đạo, Ngài nguyện thiết lập thế giới Tịnh độ? Bởi vì, khi hành Bồ tát đạo, Ngài đi học đạo và giáo hóa chúng sanh khắp cả mười phương thế giới với nhiều hình thức khác nhau, Ngài đã tham vấn tất cả Tịnh độ của chư Phật khắp mười phương. Từ đó, Ngài rút ra bốn mươi tám đại nguyện để thiết lập cõi Tịnh độ cho chúng sanh tương thích.

Như vậy, Tịnh độ của đức Phật A-di-đà được thành tựu là từ nơi chủng loại Giới thứ ba là Nhiêu ích hữu tình giới. Ngài thành lập Tịnh độ là vì lợi ích chúng sinh, chứ không phải thành lập Tịnh độ để mình làm giáo chủ.

2- Ba pháp quy y và Năm giới trong pháp hành Tịnh độ

Tịnh giới có liên hệ mật thiết đến pháp môn Tịnh độ. Vì vậy, muốn thực hành pháp môn Tịnh độ có hiệu quả thì mình phải phát nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Tuy nhiên, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng ở đây không phải là từ nay cho đến trọn đời mà là “con nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Phật, không quy y trời thần quỷ vật; nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Pháp, không quy y ngoại đạo tà giáo; nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Tăng, không quy y tổn hữu ác đảng hay là thầy tà bạn ác” và “nguyện đời đời kiếp kiếp giữ gìn không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống rượu và các chất say nghiện”. Nếu chúng ta có nền tảng của Tịnh giới thì chúng ta tu tập pháp môn Tịnh độ rất dễ thành công. Còn nếu tu Tịnh độ mà không thiết lập trên nền tảng của Tịnh giới, thì Tịnh độ đó không có cơ sở giúp mình đi tới ước nguyện vãng sanh. Đây là giải thích Tịnh độ qua lăng kính của người hành trì Giới luật.

II. Nhân duyên phát khởi niềm tin

Thưa đại chúng, nhiều vị đã hỏi tôi:

– “Thưa thầy! Thầy tin có Tịnh độ Phật A-di-đà không?”. Tôi trả lời: “Tôi tin tuyệt đối có Tịnh độ Phật A-di-đà”.

– “Vì sao Thầy tin tuyệt đối có Tịnh độ Phật A-di-đà?”

“Vì tôi tin tuyệt đối vào Tịnh giới; vì tôi tin tưởng tuyệt đối vào phẩm tính giác ngộ và tuệ giác của đức Phật Thích-ca; tôi tin tuyệt đối vào Giáo pháp của đức Phật dạy; tôi tin tuyệt đối vào sự thanh tịnh hòa hợp của Tăng đoàn và vì tôi có niềm tin tuyệt đối như vậy, cho nên tôi tin tuyệt đối có Tịnh độ. Không phải tôi chỉ tin có Tịnh độ Phật A-di-đà, mà còn tin có Tịnh độ của chư Phật khắp mười phương”.

– “Thầy chưa vãng sanh Tịnh độ, sao Thầy tin tuyệt đối về Tịnh độ?”

“Mặc dù, tôi chưa vãng sanh Tịnh độ, nhưng tôi tin tuyệt đối có thể giới Tịnh độ, qua bốn duyên khởi: Chứng kiến, thực nghiệm, suy nghiệm và nghe thấy từ các bậc trí giả”.

1- Chứng kiến

Nhân duyên thứ nhất tôi tin tuyệt đối về thế giới Tịnh độ là do tôi có chứng kiến từ Thầy tổ chúng tôi, từ thiện hữu tri thức của chúng tôi, từ tín đồ mà chúng tôi thấy rằng, họ tu tập pháp môn Tịnh độ thành công và có kết quả nhất định.

Sau năm 1975, quê tôi có bác Cửu-cang làm Khuôn trưởng Khuôn Thành- công, Quảng-điền, tỉnh Thừa-thiên. Bác là ông nội của Hòa thượng Tịnh-diệu, Trụ trì chùa Giác-hải, Vạn-ninh, Khánh- hòa. Lúc đó bác khoảng hơn 80 tuổi, chỉ bị bệnh nhẹ. Hòa thượng Tịnh-diệu từ Khánh-hòa đi về Huế và mời tôi cùng thầy Thuần-trực (Giám tự Tổ đình Tây- thiên, Huế) về thăm và cầu an cho ông nội. Khi về làm lễ cầu an, Hòa thượng Tịnh-diệu lúc bấy giờ nói “xin quý thầy tụng cho một biến kinh A-di-đà”. Tôi mới cười và nói: “Nếu mà tụng kinh A-di-đà, ông nội thấy cảnh giới của Phật trang nghiêm đẹp như thế thì ông xả báo thân về Tịnh độ liền sao?”. Ông nội của Hòa thượng bỗng chắp tay lại nói: “Cái đó đệ tử đâu dám, chuyện đó là Phật sắp xếp, đệ tử đâu dám”. Thế là ba anh em chúng tôi tụng kinh A-di-đà. Ông nằm chắp tay lắng nghe, tụng kinh xong, ông kêu thầy Tịnh-diệu: “Thầy đắp y hậu, ngồi trên đầu, nói lại giới Bồ tát tại gia cho tôi nghe”. Hòa thượng Tịnh-diệu mới đắp y hậu, ngồi trên đầu, nói lại giới Bồ tát tại gia cho ông nghe về sự phát Bồ đề tâm, về sự phát đại nguyện, về Tín, Nguyện, Hạnh của người thọ trì Bồ tát giới tại gia. Nghe xong thì ông nói với ba cô con gái: “Các con pha nước cho ba Thầy dùng”. Ba cô con gái nói: “Thưa Ôn, mấy con pha rồi”. Ông nói: “Ba thầy của mình ở đó rồi, nhưng mà còn có ba thầy đang đi đến, pha nước chuẩn bị cho ba thầy dùng”. Hòa thượng Tịnh-diệu mới vỗ trên vai ông nói “Ôn giữ chánh niệm, niệm Phật”. Ông nói: “Không, tôi nói thật mà”. Một lát sau ba cô con gái đó hét lên một cái, thì tôi hỏi sao hét lên như vậy, họ nói rằng: “Có ba thầy, mặc ba chiếc áo vàng đi từ không trung đến và đang đứng trước sân”. Ba cô con gái nói như vậy, mình thì không thấy gì cả,

nhưng ba cô ấy nói một cách rất rõ ràng. Xong một lát, trông thấy nét mặt của ông nội rất tươi và đẹp, ông nhắm mắt lại, thì cả ba anh em chúng tôi đến đứng xung quanh và hộ niệm, vừa niệm “Nam mô A-di-đà Phật”, thì ông vừa chắp tay và nhìn chúng tôi, ông cũng niệm “Nam mô A-di-đà Phật”, và niệm cho đến khi ông đưa hai tay ập lên trái tim của mình và đi.

Rõ ràng, tu tập Tịnh độ có kết quả, có kết quả mà chính là tôi chứng kiến, chứ không phải sách vở, không phải nghe người khác kể. Vì vậy, tôi tin tu tập Tịnh độ chí thành, chí thiết là có kết quả.

Cảnh giới Tịnh độ của chư Phật là cảnh giới có thực, cảnh giới của Phật A-di-đà là cảnh giới có thực, đó là một chuyện mà tôi đã chứng kiến.

Chuyện thứ hai. Một hôm vào lúc 9h tối, mẹ tôi nhức đầu nhẹ, rồi bà nói với ông già tôi là: “Ôn ra vườn hái cho tôi chín ngọn lá trường sanh, rửa sạch, rồi đem vào giúp tôi”. Ông già tôi mới ra ngoài vườn hái chín ngọn lá trường sanh, rửa sạch và đem vào cho bà. Bà ngồi với tư thế kiết già, nhai chín ngọn lá đó và khi nhai xong, thì ông già tôi ra đóng cửa, trong này bà niệm Phật ba tiếng thiệt to: “Nam mô A-di-đà Phật. Nam mô A-di-đà Phật. Nam mô A-di-đà Phật”. Khi ông già tôi đóng cửa xong, đi vào thì thấy bà đi rồi. Đó là chuyện mẹ tôi.

Thân phụ của tôi 94 tuổi cũng đau rất nhẹ nhàng. Trước khi xả bỏ báo thân là ông ăn một tô cháo, rồi dạy con cháu ngồi xung quanh đó, ông đem tiền lì xì cho mỗi đứa ngồi xung quanh và dặn: “Ngồi đó ta ngủ nửa giờ ta dậy”. Ông ngủ đủ nửa giờ ông dậy, xong, ông chống gậy đi vào nhà vệ sinh. Người cháu kêu bằng bác ruột dìu ông đi thì ông nói: “Không cần, bác đi được”. Ông vào nhà vệ sinh đóng cửa lại, đi vệ sinh. Đi vệ sinh xong, tự rửa tay, làm vệ sinh sạch sẽ xong, ông

ra ngồi trên giường. Ngồi khoảng mười lăm phút, một người em con chú của tôi, báo tôi là bác sắp đi. Tôi liền bước vào phòng của ông, ngồi trên đầu giường. Ông nằm xuống kê đầu trên chân của tôi và ông niệm Phật. Tôi niệm Phật cùng ông và cuối cùng chưa đầy năm phút, ông nhìn tôi một cái, rồi nhắm mắt ra đi.

Đó là tự thân tôi chứng kiến, những vị tu tập Tịnh độ, mà Ông thân tôi cũng là Khuôn trưởng Khuôn Thành-công. Nghĩa là Ông thân tôi bao giờ cũng đặt Tam bảo lên đỉnh đầu, một Giới nhỏ cũng không bao giờ phạm. Những ngày gần mất, tôi hỏi “Ôn muốn gì”, ông nói:

“Không muốn gì nữa, chỉ muốn về với Phật thôi, mọi chuyện Khuôn hội, họ tộc đều sắp xếp hết cả rồi!”.

Như vậy, quý vị thấy, ba vị cư sĩ, họ không thông Tam tạng giáo điển, họ không giảng dạy giáo lý Phật giáo, thế mà họ an lạc xả bỏ báo thân này. Cho nên, Phật pháp là phải hành trì, phải đặt hết niềm tin vào đó để mà sống, chứ không phải đội niềm tin lên đỉnh đầu, phải biến niềm tin trở thành đời sống. Cho nên tôi trả lời mạnh dạn là tôi tin Tịnh độ Phật A-di-đà một cách tuyệt đối, vì tôi tin Tịnh giới tuyệt đối. Và tôi tin điều đó có cơ sở, vì chính bản thân tôi chứng kiến. Chưa nói đến các bậc cao đức của mình. Các bậc cao đức của mình có những vị cũng rất tuyệt vời, nhưng mà mình không chứng kiến chỉ nghe nói thôi, còn đây là chứng kiến thực sự. Cho nên, thấy các vị chết mình thèm quá, cũng muốn chết luôn, mà đâu có dễ.

Từ đó, chết mới không làm mình sợ hãi nữa, không lo lắng, bởi vì có những người chết rất là đẹp, thì tại sao mình tu hành mà sợ chết? Chỉ sợ mình sống không dễ thương, sống không đẹp. Còn mình sống đẹp, sống có niềm tin Tam bảo, sống có Tịnh giới, sống có sự da trì lực của Tam bảo, sống có sự da trì lực từ bản nguyện của các Ngài, thì nhất định mình sống đẹp, mình chết cũng đẹp. Cho nên, thứ nhất là do Chứng kiến, nên tôi tin có Tịnh độ của chư Phật và hiệu quả hành trì từ pháp môn ấy.

2- Thực nghiệm

Thứ hai là do sự thực nghiệm.

Trong gia đình, vợ chồng gây nhau mà có người tu Tịnh độ, người chồng gây bà vợ, bà vợ đứng yên lặng nói: “Nam mô A-di-đà Phật, Nam mô A-di-đà Phật, Nam mô A-di-đà Phật”, lúc đầu bà niệm thì ông chồng thấy khó chịu, nhưng khi bà niệm đến ba niệm, đến năm niệm là cái giận của ông chồng, cái dữ dội của ông lặng xuống liền. Hoặc hai, ba chị em gây nhau; hai, ba anh em gây nhau thì cũng vậy. Mình giận ai, mình nhắm mắt lại, theo dõi hơi thở vào ra của mình, nhiếp tâm niệm Phật theo hơi thở vào ra, cơn giận của mình sẽ lắng xuống, bực bội của mình sẽ lắng xuống.

Như vậy rõ ràng, nếu mình không tin và không thực hành lời Phật dạy thì thôi; còn tin và thực hành thì kết quả sẽ xảy ra cho mình ngay trong đời sống này, chứ chưa nói là sau khi kết thúc đời sống này. Cho nên, tôi tin tưởng pháp môn Tịnh độ, vì tôi tin tưởng Tịnh giới và đã thực hành Tịnh giới. Tôi đã thực hành pháp môn này bằng sự thực nghiệm trong đời sống của chúng tôi, tôi nhiếp phục được tham, tôi nhiếp phục được sân, tôi nhiếp phục được si, tôi nhiếp phục được cái nghi ngờ trong đời sống của mình.

3- Suy nghiệm

Thứ ba là suy nghiệm.

Giống như triết học, như toán học, mình có một suy tư về triết học, về toán học thì Tịnh độ cũng vậy. Nhiều vị nói là Tịnh độ không có, vì đức Phật không dạy ở trong Kinh A-hàm, ở trong kinh tạng Pāli. Nói như vậy, có nghĩa là các thầy đọc kinh một cách hời hợt, chiêm nghiệm lời Phật dạy một cách hời hợt. Còn nếu chúng ta đọc và chiêm nghiệm một cách sâu sắc, thì chính Tịnh độ mở ra ở trong kinh A-hàm, ở trong kinh tạng Pāli; nó được thiết lập trên kinh A-hàm, trên kinh tạng Pāli. Câu kinh mà tôi dẫn ra thì ai cũng biết: ”Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Có phải là câu kinh này nằm ở trong văn hệ A-hàm, văn hệ Nikāya Pāli không? Không những nằm ở trong các kinh ấy mà còn là trụ não các kinh ấy. Như vậy, tâm tạo ra Tịnh độ và tâm tạo ra địa ngục; tâm này mà liên hệ phiền não tham, sân, si thì nó sẽ tạo ra địa ngục; tâm này liên hệ với Tịnh giới, liên hệ với đại nguyện, bản nguyện thì tạo ra Tịnh độ. Như vậy, tại sao nói là kinh điển Tịnh độ, cảnh giới Tịnh độ của Phật A-di-đà không thấy ở trong kinh tạng A-hàm và kinh tạng Pāli? Cho nên, văn kinh rồi, thì phải tư kinh; tư kinh rồi, thì phải thực hành theo lời dạy của kinh, mới gọi là tu kinh.

Văn, tư, tu là ba pháp hành căn bản, xuyên suốt mọi pháp hành trong Phật giáo. Tại sao một số quý thầy đi học nước ngoài về, lại lớn tiếng nói là không có Tịnh độ Phật A-di-đà? Thế thì các thầy học cái gì từ Phật giáo, trong đó câu kinh rất căn bản: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Chính tâm tạo tịnh độ, chính tâm tạo ra uế độ. Trong kinh Duy-ma-cật nói: “Tâm tịnh thế giới tịnh”, và khi mình đi vào ở chùa, bài kệ đầu tiên mình tụng trong mỗi buổi chiều là “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thế duy tâm tạo”.

“Nhược nhân dục liễu tri tam thế nhất thiết Phật = Nếu người nào muốn biết các đức Phật ba đời”. “Ưng quán pháp giới tính, nhất thiết duy tâm tạo = Hãy quán chiếu tính chất vũ trụ, hết thảy đều được tác động bởi tâm”.

“Nhất thiết duy tâm tạo = tất cả đều được tác động bởi tâm”. Như vậy, tâm ta tịnh thì sao không có Tịnh độ? Vì do tâm ta bất tịnh, bất tín, nên Tịnh độ không hiện tiền với chúng ta; tha phương Tịnh độ cũng không có với chúng ta; còn nếu tâm ta thanh tịnh, tâm ta thành tín, thì Tịnh độ nhất định hiện tiền với chúng ta và tha phương Tịnh độ là thế giới Tịnh độ tương thích của tâm thanh tịnh và thuần tín này. Tâm ta phiền não, tâm ta uế trược thì thế giới uế trược nó hiện tiền và những cảnh giới uế trược nó tương thích với tâm ấy của chúng ta.

Cho nên, tôi tin Tịnh độ, bởi vì tôi có sự chiêm nghiệm, mà sự suy nghiệm này từ đâu đến, từ nơi pháp học, pháp hành “văn, tư, tu” mà đến. Văn là lắng nghe, lắng nghe Pháp được đức Phật trình bày trong mười hai thể loại kinh điển, hay là năm thời thuyết giáo của đức Phật, như  lời phán giáo của ngài Thiên-thai Trí- giả, gồm: Hoa-nghiêm, A-hàm, Phương-đẳng, Bát-nhã, Pháp-hoa và Niết-bàn. Khi chúng ta nghe kinh điển đó thì chúng ta lắng nghe bằng tâm thành, bằng tâm thanh tịnh, nghe rất sâu và từ đó tuệ giác nghe kinh được sinh ra trong đời sống chúng ta. Tuệ sinh ra từ sự lắng nghe, gọi là Văn tuệ. Nghe rồi, chúng ta chiêm nghiệm thật sâu lời Phật dạy chuyển tải ở trong các thể loại kinh điển, các thời thuyết giáo của Phật, từ đó mà tuệ sinh ra, cho nên gọi là Tư tuệ. Sau khi nghe rồi, sàng lọc, chiêm nghiệm, thấy pháp này phù hợp trong nhân duyên điều kiện của mình, thì mình ứng dụng vào trong đời sống. Khi mình ứng dụng vào trong đời sống của mình, cảm thấy an lạc và càng thực hành càng thấy vui, tâm mình mở ra, càng tu tầm nhìn của mình càng mở lớn ra và càng tu, mình càng có an lạc và hạnh phúc, từ đó mà mình tinh tấn tu tập mỗi ngày. Tuệ sinh ra là do sự thực hành giáo pháp đức Phật, nên gọi là Tu tuệ.

Cũng từ suy nghiệm và chiêm nghiệm này, khiến ta biết rằng, đã có cõi uế độ thì sao lại không có cõi Tịnh độ, có cõi này thì có cõi kia, chứ sao lại không có. Đã có thầy Trụ trì thì phải có chúng đệ tử, có chúng đệ tử thì phải có thầy Trụ trì. Bởi vì, có cái này thì có cái kia, có cái kia thì phải có cái này, trong pháp tương quan duyên khởi, gọi là y tha duyên khởi. Cho nên, đã có uế độ sao mà không có Tịnh độ, đã có phương Đông sao lại không có phương Tây, đã có phương Bắc sao lại không có phương Nam, bởi vì các pháp duyên với nhau mà khởi hiện.

Qua phương pháp chiêm nghiệm và suy nghiệm như vậy, cho nên ta biết chắc rằng, có Tịnh độ Phật A-di-đà và điều đó, ngày nay khoa học đã chứng minh cho chúng ta biết rằng, ngoài hệ thống thiên hà này, còn có vô số hệ thống thiên hà khác. Những gì mà đức Phật Thích-ca nói trong các kinh điển, liên hệ về Tịnh độ của chư Phật nói chung và liên hệ đến Tịnh độ của Phật A-di-đà nói riêng, thì bây giờ đây, xã hội hiện đại khoa học này đang từ từ chứng minh những gì mà đức Phật đã nói về thế giới Tịnh độ của chư Phật.

Ví dụ, đức Phật Thích-ca đã từng dạy cho chúng ta về bốn mươi tám đại nguyện của đức Phật A-di-đà, trong đó nguyện thứ sáu: “Khi tôi thành Phật thì chư thiên và nhân loại nơi thế giới tôi đều có thiên nhãn thông, nếu không phải vậy, thì tôi nguyện không thành bậc Chánh giác”. Thiên nhãn thông là ngồi một chỗ mà thấy cùng khắp mọi thế giới.

Bây giờ, mình ngồi một chỗ mà thấy mọi hình ảnh, qua các vệ tinh truyền hình và phát ra âm thanh, nghe khắp cả thế giới và thế giới đều nghe mình nói. Điều ấy, có phải là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông không, “thiên nhãn phổ kiến, thiên nhĩ phổ văn” không? Những gì tôi đang nói với quý vị ở chùa Vạn-đức, Thủ-đức đây, mà hiện tại quý vị đang ngồi cách đây 300 cây số ở chùa Vạn-linh, ở Châu-đốc cũng đang nghe, quý vị ở Mỹ cũng đang nghe và cả toàn cầu đang nghe, điều ấy có phải là thiên nhĩ phổ văn không? Và quý vị ở các nơi đang trông thấy hình ảnh của tôi đang nói, có phải là thiên nhãn phổ kiến không?

Tất cả những văn minh ấy, chỉ là một phần nho nhỏ của nền văn minh Tịnh độ. Nhưng bởi vì tri thức mình bị giới hạn,  cái hiểu biết bị đóng khung, nên mình nói không có Tịnh độ Phật A-di-đà. Nói không có, tức là mình tự giới thiệu trí thức kém cỏi của mình với văn minh khoa học hiện đại, chứ chưa nói rằng là quá kém cỏi với đức tin Tam bảo và giáo lý Phật giáo.

Cảnh giới Tịnh độ của Phật còn mô tả rằng: “Mình đi tới là cái cửa tự mở ra” thì bây giờ đây, người ta kết cấu gọi là cửa cảm ứng, nên mình đi tới nó tự mở, cho nên những gì mà đức Phật Thích-ca nói về thế giới Tịnh độ của chư Phật, được chư Tổ ghi chép, giữ gìn lại ở trong các kinh điển, thì bây giờ đây khoa học đang nghiên cứu và ứng dụng nó vào thế giới hiện thực này, chúng ta đang thừa hưởng tư tưởng Tịnh độ mà không biết.

4- Nghe từ các bậc Trí giả nội chứng

Thứ tư là nghe từ các bậc trí giả nội chứng.

Hỏi “Vì sao mà Thầy tin Tịnh Độ?”. Tôi chưa có khả năng suy nghĩ, cũng không có khả năng chứng kiến ​​và tôi cũng chưa có khả năng thực nghiệm, nhưng tôi tin tưởng vào lời dạy của các bậc trí giả nội chứng nói lại, tôi tin từ những bậc thầy của tôi. Vậy thầy mình nói lời đó từ đâu? Là lời của Thầy tổ. Thầy tổng hợp của chúng ta nói gì không phải Ngài nói tiếng mà Ngài đều nói ở nơi chứng minh của tự thân. Né, tôi tin có Tịnh độ là từ các tầng trí giả nội chứng, trước mắt là Thầy tổ của tôi. Thầy tôi tin vào các vị Tổ sư trước đó nói lại qua kinh điển, qua các bản thảo luận. Chúng ta không tin bản kinh Bi-hoa do ngài Đàm-vô-sấm dịch hay sao? Ngài Đàm-vô-sấm đâu phải người Trung-hoa. Có nhiều vị trí được đưa ra ở Tịnh độ do các Tổ sư Trung-hoa đưa ra, chẳng hạn như nói quá nguy hiểm. Quá nguy hiểm! Vì Ngài Đàm-vô-sấm đâu phải người Trung-hoa, Ngài người Ấn-độ mà. Cho nên, bản kinh Bi-hoa có nói về Tịnh độ của Phật A-di-đà, nói về sự quan hệ đức Phật A-di-đà và giáo sĩ Bổn sư của họ ta, đồng thời nhấn mạnh tâm đại bi của hai Ngài trong sự thực hành gọi là “Nhiêu hữu ích tình giới” làm lợi ích chúng ta. Bây giờ mình không tin Ngài, không tin kinh thì tin ai? Tin thầy A, thầy B, thầy C à? Tin những học giả và học thuyết thế gian

Một? Chúng ta không tin kinh nghiệm Vô lượng của bạn Khương-tăng-khải dịch sao? Chúng ta không tin vào bản dịch kinh A-di-đà của Quý khách? Chúng ta không tin vào bản kinh Xưng tán Độ dài nhiếp ảnh của Huyền-tráng dịch? Mình không tin Ngài, thì tin ai bây giờ? Lịch sử nhân loại ngài Ngài là những con người vĩ đại trong dịch thuật, học thuật, trong thiết kế công thức, lịch sử nhân loại chưa bao phủ đã nhận được công nghệ trí tuệ của Ngài đóng góp cho nhân loại. Vì vậy, hãy hỏi chúng tôi là ai mà phủ phủ nhận các công cụ dịch thuật và học thuật.

Chúng tôi không tin vào bạn Long-thân, chúng tôi không tin vào bạn Thế-thân thì tin ai? Ngài Long-thoại trong Thập trụ Tỳ-bà-sa đã nói đến pháp nan hành và dị hành. Ngài ca ngợi pháp môn Tịnh độ là pháp dịch hành và tu tập Thánh đạo là pháp nan hành. Tu tập Tịnh độ là pháp giải hành động, pháp môn dễ thực hiện tập, bởi vì có năng lực tu bản. Cỡ như ngài Long-thọ mà còn tin tưởng Tịnh độ, kích thước như ngài Long-thọ còn ca ngợi Tịnh độ, thì hỏi mình trí thức ngang đâu, trí thức ý tưởng ăn nhập vào đâu so với các ngài, mà bờ sông láo. Ngài Thế-thân viết Vãng sanh thảo luận hay Vô-lượng-tho kinh Ưu-bà-đề-xá, cuối cùng quý Thế-thân phát lộc sanh Tây phương, ngài Long-thọ cũng cầu nguyện được sanh Tây phương và lớn hơn nữa , là Bồ tát Văn-thù, Bồ tát Phổ-hiền đều nguyện sanh Tây phương. Trong Văn-thù sở hữu kinh và kinh Hoa-nghiêm, các ngài Văn-thù cũng như Phổ-hiền đều nguyện sanh Tây phương. Đó là tôi nói về các bậc đại trí tuệ ở Ấn Độ, chứ chưa nói đến Trung-hoa, chưa nói đến Việt-nam, chưa nói đến Nhật-bản, chưa nói đến Hàn-quốc, Mông-cổ, Tây- Phần…

Vì vậy, ta phải tin tưởng vào Tịnh độ tuyệt đối từ nơi nghe các cấp trí giả nội chứng. Các ngài không phải nói bằng lời mà nói bằng văn bản, nói bằng luận cứ, bằng chứng thực… Như vậy, mình có cơ sở để tin giáo dục Tịnh độ chưa? Phải nắm chắc cơ sở giáo dục và lịch sử Tịnh độ, nếu không thì mình sẽ có được một số lợi ích cần thiết để hiểu biết Cơn hợt chiến đấu khám phá Tịnh độ làm cho niềm tin của mình được chao đảo.

Kinh Tứ thập nhị chương giảng dạy: “Nghịch phong dương trần, trần bất chí tắm, hoàn bộ kỷ thân. Ngưỡng diện thóa thiên, hóa học bất chí thiên hoàn cần kì họa” = “Đi ngược gió mà giê Bụi, bụi không đến người ta, mà ngược trở lại Gmail lấm lem mình; nhẹ nước bọt lên trời, nước bọt không giác trời mà rơi lại nơi mặt mình”. Cho nên, không một ai tà tâm, ác tâm mà có thể đánh giá được Phật giáo nói chung và giáo lý hạnh quả Tịnh độ nói riêng. Phật giáo là kết tinh từ giác giác của Phật và được truyền thừa tinh thần từ những tinh hoa chứng nghiệm của chư vị sư Đông, Tây kim cổ.

Khi mình tu học đối với Tịnh độ là cảnh giới mà mình vĩnh hằng nguyện được sanh về đó thì mình cũng phải có những cách trả lời như vậy đối với Tịnh độ.

Người tu tập Tịnh độ sinh về thế giới ấy, không phải để thụ thụ, mà nguyện sinh về đó để tiếp tục nuôi dưỡng tâm Bồ đề, nuôi dưỡng tinh thần và hạnh phúc Bồ đề của mình. Nguyện sanh Tịnh độ để học mô thức Tịnh độ của Phật A-di-đà và từ đó vận dụng mô thức ấy vào đời sống của chính mình với nhiều hình thức khác nhau, với nhiều không gian khác nhau, để mang lại lợi ích cho tất cả các loài, mỗi khi mình được cơ duyên.

Đức Phật A-di-đà khi hành Bồ tát đạo, Ngài cũng đã từng đi tham cứu hết cả mười phương Tịnh độ, mười phương phương chư Phật và có đến 500-600 đại nguyện, cùng nhiều đại nguyện của chư Phật, nhưng Ngài Ngài sẵn sàng sàng lọc lại bốn mươi tám đại tự nguyện để xây dựng quê hương Tịnh độ của chính mình, nhằm giúp đỡ chúng sanh

trong mười phương vang đỏ Tịnh Độ của ngài, nuôi dưỡng lớn tâm ấy và phát triển tâm trí đến các khu viên mãn tính.

III. Bản Tịnh độ

Quý Thầy, quý Cô biết là phàm phu thì hay nói dối nhau, vì quyền lợi mà nói dối nhau. Còn đức Phật đâu có quyền lợi gì đâu mà nói dối, Ngài luôn nói lời chân thật. Các vị Tổ sư có quyền lợi gì nơi cõi này đâu mà nói dối chúng sinh, các Ngài đều nói lời chân thật. Thầy tổ chúng ta đâu có vì gì lợi nơi những đứa trẻ học trò ngu dốt mà nói dối chúng. Cho nên, các Ngài đều nói lời chân thật. Chỉ có phàm phu là hay nói dối nhau thôi, nói dối vì danh lợi; chư Phật, chư thiên của chúng ta đâu phải danh lợi để có mặt trong cuộc đời này đâu, các Ngài có mặt trong cuộc đời này là vì tâm đại bi, vì đại nguyện bồ đề, chứ không phải vì bất cứ thứ một thứ còn gì nữa.

Do đó, Tịnh độ của Phật nói chung và riêng của Phật A-di-đà nói là được thiết lập trên nền tảng nền tảng Bản nguyện. Cõi Tịnh độ an lạc, hạnh phúc là vì được thiết lập trên nền nền tảng bản nguyện, còn thế giới của chúng ta không có hạnh phúc là vì chúng ta đến đây vì nghiệp lực và bị nghiệp lực xả lực.

Chúng ta đi tu mà có được hạnh phúc là vì chúng ta có bản nguyện. Chúng ta tụng kinh, ngồi thiên, niệm Phật, ăn chay, làm các công việc của Tam bảo… mà có hạnh phúc là vì chúng ta tự nguyện và tất cả đều từ nơi bản tôn Bồ tát đạo của chúng ta. Chúng ta quét nhà cũng thấy hạnh phúc, tụng kinh cũng hạnh phúc, ngồi thiên cũng hạnh phúc, trì chú cũng hạnh phúc…, làm bất cứ thứ gì đi từ nơi bản nguyện là chúng ta có hạnh phúc, có hạnh phúc ngay trong hành động của chính mình. Giáp, Tịnh độ của Phật Phật hay là Tịnh độ của Phật A-di-đà, các bậc Thiện nhân, Chư thiên, Thanh văn, Duyên giác cho đến Bồ tát Nhứt sanh bổ sung xứ, đều là tự nguyện và phát nguyện vong sanh Dịnh độ của Phật.

Từ bản nguyện và đại thiền Tịnh độ chư Phật, Bồ tát và các bậc Thánh giả nguyện sanh, kết tinh lại thành một khối cực câu lạc bộ, khối an câu lạc bộ, câu lạc bộ cùng cực, nhìn đâu cũng tìm thấy một câu lạc bộ, không đâu ở không lúc nào là không an lạc, nên gọi là cực lạc. Mở mắt ra là câu lạc bộ, màu mắt lại cũng câu lạc bộ, mọi hoạt động của các ngài đều ở trong an câu lạc bộ. An lạc đó là từ nơi đại nguyện, nơi bản nguyện mà hiện khởi, vì vậy gọi là cực lạc do đi từ nơi bản nguyện, từ nơi đại nguyện.

Vì vậy chúng ta tu mà không có bản nguyện, không có đại nguyện nên chúng ta tu rất mệt mỏi và vất vả lắm. Tu tập mà không thiết lập bản nguyện và đại nguyện thì mọi hoạt động của chúng ta chỉ là đối phó. Bạn đã không giải quyết được vấn đề rồi; tụng kinh mà bị đi tụng kinh là khổ rồi, chứ không thể nói tụng kinh là hoan lạc; ngồi thiên mà bị đi ngồi thiên là đau khổ rồi, làm việc chùa mà đang làm việc chùa là đau khổ rồi, bị thầy trụ trì sai làm việc chùa là đau khổ rồi, bị Tri sự sai đi làm việc chùa là đau rồi.

Làm việc chùa, vì mình thấy cái đó cần phải làm, làm có lợi thì mình lập nguyện mà làm. Tụng kinh hạnh phúc là vì tụng kinh trong hạnh nguyện; quét thiền hạnh phúc, ngồi thiên hạnh phúc, đi khất thực,… đều thiết lập trên bản nguyện và đại nguyện thì không có gì mà không hạnh phúc.

Thế giới Tịnh độ là thế giới được thiết lập trên nền tảng của bản mệnh và đại nguyện, đó là lý do tại sao gọi thế giới Tịnh độ là thế giới an lạc hay cực lạc.

Nền tảng Tịnh độ được thiết lập từ nơi tâm trí. Giới là hàng rào phòng hộ tâm ý, tạo cho điều ác không xảy ra nơi tâm ý và điều xấu cũng không xâm nhập vào tâm ý. Thế giới Tịnh độ được thiết lập trên nền tảng tâm trí thanh tịnh, nên gọi là tự vệ bất kỳ ý ý.

Trong kinh Duy-ma-cật khi nói về thế giới Hương-tích thì ngài Xá-lợi-phất liền nghĩ: “Thế giới Hương-tích sao đẹp và thanh tịnh như vậy? Thế thì đức Thế tôn của chúng ta tâm ý như thế nào thế giới của Ngài ô uế như thế này?”. Đức Phật liền biết ý niệm của Tôn giả Xá-lợi-phất, nên Ngài liền gọi Tôn giả mà bảo: “Món ông Xá-lợi-phất! Thế giới của Như-lai thanh tịnh, nhưng mà thấy bất tịnh là do tâm ý của chúng sanh bất sạch, chứ không phải thế giới của Như-lai bất sạch. Thế giới Như-lai thanh tịnh, nhưng bất tịnh là vì tâm chúng sanh bất tịnh nhìn thế giới Như-lai, nên không phát hiện ra sự thanh tịnh, chứ thế giới của Như-lai là thanh tịnh”. Nói xong, Ngài liền móng tay cái xuống đất, cảnh giới Tịnh độ của Phật Thích-ca liền hiện ra rất thanh tịnh và tất cả hội chúng đang ngồi ở đó, ai cũng thấy mình ngồi trên cao sen thanh tịnh và trang béo . Sau đó, đức Phật dùng thần lực đưa chúng ta trở về với tâm ý của họ và chúng sanh liền thấy cõi này là ô uế.

Như vậy, chúng ta muốn về Tịnh độ phải có được sự tự tâm thanh tịnh và có sức mạnh của Phật, nhưng dù chỉ có thân mình thì chúng ta không có đủ năng lực để về. Cho nên nói đến Tịnh độ là nói đến có đà tiến lực của Phật, của các Bồ tát. Còn nếu tự lực, bình dân phu khó thành:

“Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi da hộ.
Dầu phải đảm bảo ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh.
Nương từ tìm kiếm bảo mật…”.

Cho nên, khi mình ngủ thì phải nhờ ai đánh thức cho mình, phải nhờ chuông báo thức hoặc nhờ thầy tuần chúng đi đánh thức mình, nhờ những bạn đồng tu ít ngủ đánh thức cho mình, gọi mình dậy để mình đi cầu thời công phu muộn. Tất cả chúng ta tu tập đều phải có năng lực. Nhưng mà da trình lực rồi, mình không có tự lực thì cũng không được. Nên, tự lực và tha lực luôn hỗ trợ lẫn nhau và chúng đều có mặt trong nhau, tạo nên chất xúc tác vùng sinh Tịnh độ.

IV. Tín Căn Và Tín Lực

Quý Thầy, quý Cô đã học Duy thức rồi, Tín là một trong 11 Thiện tâm sở (tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hư) . Nên, Tín là căn bản của thiện pháp, vốn có nơi tâm ta. Set up set up from this Tín căn. Trí tuệ cũng chưa chắc chắn đã nhận được cảnh giới Tịnh độ, mà Tín hiệu có khả năng nhập vào cảnh giới Tịnh độ. Người mà có niềm tin Tịnh độ, họ dễ đi về Tịnh độ hơn là người thảo luận về Tịnh độ. Bởi vì thảo luận giải là thảo luận giải theo công thức và trí, lúc đó người tin Tịnh độ và họ tha thiết bị về Tịnh độ, họ có năng lực của Tịnh độ hiện tiền, dễ dàng có sự thực lực để nhập cảnh giới Tịnh độ your Buddha. Cho nên, Tín đi vào được mà Trí chưa chắc đi vào được.

Trọng kinh Viên Giác nói “Vị xuất luân hồi nhi biện viên giác, tắm phòng giác tính đồng lưu chuyển”. Nghĩa là chưa ra khỏi luân hồi mà thảo luận bàn viên giác tính, thì cái tính viên giác kia cũng đồng lưu chuyển trong sanh tử mà thôi. Tức là mình chưa thoát ra khỏi sanh tử mà bàn đến Tịnh độ thì Tịnh độ đó là Tịnh độ của người còn nằm trong ô uế sanh tử, dù bàn kích thước thảo luận mấy đi chăng nữa, thì cũng chỉ là cái thảo luận trong ngôn ngữ của con người ở trong môi trường ô uế. Ta hiện cái trí thức ở trong ô uế mà bàn Tịnh độ, thì độ sạch sẽ là Tịnh độ của phiền uế. Tuy nhiên, người có niềm tin tuyệt đối với Tịnh độ và có đà trì lực của chư Phật, Bồ tát thì họ có thể đi tới được đạt được Tịnh độ của Phật Phật.

Đối với Tịnh độ của Phật Phật, những người có niềm tin tuyệt đối, họ có thể chứng minh được cảnh giới Tịnh độ. Chứng nhập bằng cách nhất tâm trì niệm danh hiệu của Đức Phật A-di-đà.

Trong lúc chung lâm, ta niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà từ một niệm cho đến mười niệm với tâm tĩnh nhất bất loạn, thì tức khắc kết thúc sinh mệnh liền sanh về cõi Tịnh độ. Nhưng, muốn niệm mười lăm niệm danh hiệu Phật A-di-đà trong giờ phút lâm chung với tâm bất loạn, thì ta phải niệm cho đến vô lượng danh hiệu Phật A-di-đà, thì may ra đến giờ phút đó, ta mới có mười mươi nhận thức hiện tại với tâm bất loạn. Đừng để đến khi lâm chung mà khái niệm, thì ngay một khái niệm còn không thể được, nói gì đến mười khái niệm.

Trong đời sống vợ chồng gắn bó với nhau, thế mà khi sắp lâm chung, bà vợ hỏi ông chồng “Anh có nhớ em không, biết em là ai không?”, người chồng không biết hay biết một cách mơ mộng. Vợ chồng sống với nhau cả đời mà đến giờ phút đó, hỏi còn không biết, chuyện gì biết Phật, biết Tịnh độ của Phật.

Cho nên, để có được mười giây phút lâm chung, hành giả Tịnh độ phải trải qua thời gian lâu xa hành trì miên mật, đến giờ phút đó, mới có được mười khái niệm danh hiệu Phật A-di-đà trơn nhất thanh tịnh, tạo thành nhân hạnh phúc sinh.

Bởi vì trong kinh đức Phật dạy, nỗi đau làm năm uẩn tương tác phân rã là cơn nguy hiểm. Các đại rắn, nhiệt, nhiệt và khí của cơ xung đột và bức tường hỗn loạn, thì thống khổ ở giờ phút ấy cực kỳ giảm, không có cơn đau nào nhanh chóng hơn cơn đau xảy ra ngay lúc này này.

Khi bị sắc uẩn phân phân, các đại chủng xung đột bức hại nhau, tạo thủy đại tăng thạnh, bấy giờ người sắp chết có cảm giác giác như mình đang bị chìm xuống đáy đại dương, tâm sinh sợ hãi, nổ loạn. Khi địa đại tăng thạnh, người sắp chết có cảm giác bị núi Thái sơn, núi Tu-di hạ trầm và đè nặng không tưởng tượng được. Khi lửa đại tăng thạnh, người sắp lâm chung có cảm giác như bị trăm ngàn ngọn lửa, trăm ngàn mặt trời chiếu soi vào mình, chúng hấp khủng. Khi mà phong đại tăng thạnh, người sắp lâm chung cảm thấy mình mất trọng lực, bị lơ lửng giữa không trung, mất cảm giác, mất trọng lực, tâm thần nổ loạn. Người sắp lâm sống trong trạng thái tâm thần đau khổ như vậy thì có đâu nhớ Phật mà niệm.

V. Tiền tấn

Chúng ta niệm Phật là phải niệm niệm mật ngay từ khi biết Phật, ngay từ khi biết pháp môn Tịnh độ. Hành trì miên mật, chứ không đến lúc các đại chủng phân ly, chúng tạo ra khổ thống vô lượng. Mỗi tế bào là một ngọn lửa hay mỗi tế bào là một ngọn gió hay mỗi tế bào là ngọn núi lớn, mỗi tế bào là mỗi đại dương kiềm, lúc ấy ta chưa đủ năng lực để khởi động một khái niệm đối với Phật, mà Tất cả các niệm đều thuộc về vô minh.

Vì vậy, chúng ta phải hạ thủ công phu, ngay từ khi chúng ta biết Phật pháp. “Mạc đãi lão lai phương học đạo, cô phần đa thị thiếu niên nhân”. Chớ hẹn tuổi già mới học đạo, mồ hoang Lầy tuổi xuân xanh.

Chúng ta cũng đừng cho rằng, chúng ta đang như thế này là đang học đạo, đấy thực ra mình chỉ cày đầu, mặc áo, nhưng chưa chắc mình đã học đạo, chưa chắc mình đã thấy được đạo, chưa chắc mình đã thấy được đạo đã nhận được tín hiệu và chưa được nhập vào trong theo dõi dòng của Phật pháp, theo dõi dòng của Chánh pháp.

Vì vậy, mình phải hành động ngay từ khi mình biết Phật pháp. Có nhiều người đến khi gần chết, buộc phải tắt đèn hết, chỉ cần có một ngọn đèn nổi lên là la lên “tắt đi, tắt đi”, bởi vì một ngọn đèn nhỏ thôi mà khi lửa đại bốc lên là họ thấy như hàng vạn mặt trời chỉ vào họ. Nói như vậy, để thầy thấy những gì Đức Phật chia sẻ và dạy dỗ chúng ta là Ngài nói hết rồi, Thầy của mình đã chép lại cho mình hết rồi, chỉ là làm tâm mình giải thưởng, chưa có ý thức được Biến đổi vô thường trong từng lần sát na, chưa hiểu được bản nguyện của chúng ta, nên chúng ta tự khoan những thứ thỏa mãn, trể thoải mái trong tu tập.

Học chúng tôi mô tả các phiên bản kính hiển vi

Thích Thái Hoà

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Năm Và Sáu
Luật, Phật học

LỊCH SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon – tại vị từ 1853 – 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Tư
Luật, Phật học

I– Thuyết thứ nhất Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp. Nhưng vua thấy quan...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Ba
Luật, Phật học

Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ . Vua...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Hai
Luật, Phật học

Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, 4/ Tỳ kheo ăn xong, đi sang nơi...

Lịch Sử Kết Tập Kinh Luật Lần Thứ Nhất
Luật, Phật học

Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan. Bấy giờ, tôn giả Đại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo:...

Căn Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng
Luật, Phật học

CĂN BẢN GIỚI BỒ TÁT CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG Nguyên tác: Root Bodhisattva Vows modified, March 2002, from Berzin, Alexander. Taking the Kalachakra Initiation Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – Thursday, March 05, 2015 Giới Thiệu Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi “một hành...

Phổ Hiền nguyện qua cái nhìn Phật tử sơ cơ
Phật học

Phật tử tu học theo truyền thống Bắc tông thường tụng niệm mười Phổ Hiền hạnh nguyện trong mỗi khoá lễ. Hầu như ai cũng thuộc lòng, tụng như cháo chảy nhưng nhiều khi chỉ là đọc tụng theo quán tính, theo trí nhớ chứ ít khi tìm hiểu thấu đáo, hoặc là thật sự...

Hạnh nguyện của Đức Bồ tát Quán Thế Âm
Luận, Phật học

Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên...

Tánh Khởi Luận: Lý thuyết phân phối trật tự trong Hoa Nghiêm Tông
Luận, Phật học

(I) Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô. Họ khởi đầu bằng nỗ lực nghe và thấu hiểu mọi lời được nói ra. Họ nỗ lực để thấy hiểu mọi chiều hướng tác...

Bài Kinh Dài Về Tánh Không
Kinh, Phật học

BÀI KINH DÀI VỀ TÁNH KHÔNG Kinh Mahasunnata-sutta-sutta (dựa theo các bản tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna và tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu) Bản dịch Việt: Hoang Phong Tôi từng được nghe như thế này: Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha). Vào buổi...

Quy Sơn Cảnh Sách Văn
Luật, Phật học

溈山大圓禪師警策文 Quy Sơn Cảnh Sách Văn (Bài Văn Cảnh Sách Của Ngài Quy Sơn) (Đề này còn viết “Qui sơn Đại viên thiền sư cảnh sách”, nghĩa: Bài văn Cảnh sách của Đại viên thiền sư ở núi Quy sơn.) (1) 夫業繫受身。未免形累。禀父母之遺體。假衆緣而共成。雖乃四大扶持。常相違背。 Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị...

Chánh niệm phát huy khả năng nhận thức, điều tiết cảm xúc và làm chủ hành vi
Luận, Phật học

Chánh niệm viết đầy đủ trong tiếng Pali là “sammā-sati”, nghĩa là sự tâm niệm đúng đắn. Nó có nguồn gốc xuất phát từ tuyền thống thiền quán phương Đông, cụ thể là từ Phật giáo Nguyên thủy (Hart, 1987). Có mặt hơn 25 thế kỷ, thế nhưng chánh niệm mới được tiếp cận và...

Bài kinh về sự Chú Tâm Tỉnh Giác
Kinh, Phật học

BÀI KINH VỀ SỰ CHÚ TÂM TỈNH GIÁC Satipatthana Sutta (Majjhima Nikaya 10) HOANG PHONG chuyển ngữ Lời giới thiệu của người dịch Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana, nghĩa từ chương là “Sự quán thấy chuyên biệt” hay “sâu sắc”, kinh sách Hán ngữ gọi là “Minh Tuệ” hay...

Tứ diệu đế với vấn đề giáo dục đạo đức toàn cầu
Luận, Phật học, Văn hóa

TÓM TẮT Tứ diệu đế hay là bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo chính là cốt tủy cơ bản để hợp thành học thuyết nhân sinh cứu đời. Đó là kết quả suy ngẫm và trải nghiệm thông qua thực tiễn cuộc sống của chính Phật tổ và sự tổng kết những suy...

Thông Điệp Thành Đạo Của Đức Phật
Phật học, Sự kiện

Vậy là hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, kể từ một đêm khu rừng hoang vắng bên bờ sông Ni-liên-thuyền (Nairanjama), ánh trăng chiếu lờ mờ bàng bạc trong không gian hoàn toàn im ắng, cô tịch. Khu rừng chìm trong màn đêm huyền ảo, thỉnh thoảng có âm vang những tiếng muông thú kêu trong đêm trường nghe rờn rợn, tiếng côn trùng...

Đôi Điều Về Kinh Kalama
Kinh, Phật học

Nhà đại văn hào Nga Lép Tôlxtôi nói rằng: “Những chân lí sâu sắc nhất đồng thời cũng là giản dị nhất”. Nét đặc sắc khiến các bài thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca có sức thuyết phục và hấp dẫn lớn, không phải chỉ là ở tính lôgíc chặt chẽ của lập luận, mà còn ở những chân lí sâu sắc mà giản dị, được trình bày dưới hình thức gọn nhẹ, hình ảnh, và nhiều...