An cư là chế định quan trọng trong đời sống tu tập của Tăng đoàn Phật giáo, giúp tăng sĩ ổn định tinh thần và thân thể để chuyên tâm tu học. Trong Tứ phần luật và các bộ luật Phật giáo nguyên thủy, an cư thể hiện sự quy củ, thanh tịnh của tăng già, góp phần duy trì và phát triển giáo pháp. Bài viết sẽ làm rõ nguồn gốc và thực hành an cư trong truyền thống Phật giáo nguyên thủy.
Tứ phần luật còn gọi là Đàm vô đức luật, vốn do Đàm vô đức bộ (Pháp tạng bộ) thuộc hệ thống Thượng tọa bộ ở Ấn Độ sở truyền. Tương truyền, luật này của đại a-la-hán trì giới đệ nhất Ưu-ba-li sở soạn; do Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng phiên dịch sang Hán ngữ, gồm 60 quyển. Căn cứ Tứ phần luật sớ của tổ sư khai sáng Tướng Bộ luật (một trong ba nhánh của Luật tông) Pháp Lệ, bản luật chia ra 3 phần: Phần tựa, phần chánh tông, phần lưu thông. Phần tựa bao hàm khuyến tín và phát khởi. Phần chánh tông bao gồm hai bộ giới, đó là 250 điều tỉ-khưu giới và 348 điều tỉ-khưu ni giới, cùng 20 kiền độ như thọ giới, thuyết giới, an cư, tự tứ, phòng xá v.v… Phần lưu thông bao hàm ngũ bách kết tập, thất bách kết tập, điều bộ và tì-ni tăng nhất. Pháp Lệ còn chia ra 37 pháp, tức là: 8 pháp của tỉ-khưu giới, 6 pháp của tỉ-khưu ni giới, 20 kiền độ là 20 pháp, 2 kết tập là một pháp, điều bộ và các tăng nhất là 1 pháp. Luật sư Đạo Tuyên lấy luật này làm tôn chỉ, để khai sáng Luật tông. Do đó luật này là một điển tịch căn bản của Luật tông.
An cư, ý dịch là vũ quý, hoặc gọi vũ an cư, kết chế an cư, cửu tuần cấm túc v.v… Chế độ an cư được bắt nguồn từ tôn giáo truyền thống Ấn Độ cổ đại. Sau này, Phật giáo áp dụng cho hàng xuất gia. Người xuất gia Bà-la-môn giáo, tháng 8 mỗi năm vân du hành cước ở các nơi, còn tháng 4 thì do ảnh hưởng mùa mưa nên an trụ cố định ở một chỗ để dốc sức tu hành, gọi là an cư. Trong Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết-ma, quyển 4 của luật sư Đạo Tuyên giải thích về chữ an cư: “Hình tâm nhiếp tĩnh là an, yếu kỳ tại trụ là cư”, nói thoang thoáng, ý nghĩa là tĩnh tâm tu tập trong thời gian nhất định, để cầu chứng đạo. Kì-na giáo cũng có quy định vũ quý chỉ trụ một cách nghiêm túc.
Luật tạng ghi truyền về nguyên nhân mà đức Phật chế định khác nhau, và thời gian an cư của các tỉ-khưu khác nhau. Thập tụng luật, quyển 23 ghi đức Phật ở thành Vương-xá, chế đính tỉ-khưu an cư, mà không được rời khỏi thành này. Sau đó với sự kiến nghị của hàng cư sĩ, đức Phật chế định năm chúng xuất gia v.v… an cư. Thập tụng luật, quyển 24 ghi: “Trưởng lão Ưu-ba-li hỏi Phật: Ai cần phải an cư? Phật nói: Năm chúng cần phải an cư. Năm chúng nào? Một là tỉ-khưu, hai là tỉ-khưu ni, ba là thức-xoa-ma-na, bốn là sa-di, năm là sa-di-ni”. Thiện kiến luật tì-bà sa, quyển 3 ghi, con trai đầu của vua A-dục trưởng lão Mahendra thuộc vương triều Khổng Tước, từng giáo hóa các tỉ-khưu cần phải tọa hạ ba tháng trên núi Cétiyagiri nước Tích Lan. Sau đó các nước thuộc Phật giáo Nam truyền đều căn cứ luật chế, mà hoạt động tổ chức an cư để sách tấn tu tập.
Tứ phần luật và Ngũ phần luật nói về trạng huống an cư, đại khái có điểm tương đồng. Ngũ phần luật, quyển 19 ghi: “Lúc đó, các tỉ-khưu, du hành tất các mùa xuân, hạ, đông, đạp chết côn trùng, quải y nặng nề, mệt nhọc trên đường. Các cư sĩ thấy, chê trách nói: Các ngoại đạo, sa-môn, bà-la-môn kia, vẫn biết ba mùa, mùa hạ thì an cư, như bầy chim biết ổ, cư trú trong ổ. Còn các tỉ-khưu, chẳng biết ba mùa, cần thực hành mà chẳng thực hành. Luôn nói thiểu dục từ mẫn, hộ niệm chúng sanh, mà nay hỗn tạp, tâm chẳng nhân ái lân mẫn, chẳng phải sa-môn hạnh, phá sa-môn pháp. Các trưởng lão tỉ-khưu, nghe các lời chê trách, bèn thưa Phật. Phật vì việc này, tập hợp tỉ-khưu tăng, hỏi các tỉ-khưu: Các thầy quả thực như thế ư? Đáp thưa: Quả thực như thế Thế Tôn: Phật qưở trách xong, bảo các tỉ-khưu: Không nên du hành tất cả các mùa, nếu ai du hành vậy sẽ phạm đột-kiết-la, từ nay tiếp thụ an cư kiết hạ” (Ngũ phần luật quyển 19, Đại chánh tạng quyển 22, 129a).
Còn trong Tứ phần luật ghi, lúc đức Phật an trú tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc thành Vương-xá, lục quần tỉ-khưu vân du bốn mùa, gặp phải mùa mưa nước ngập lụt, trôi ca-sa và bát, ngọa cụ v.v… và làm thương tổn thân thể. Dưới sự kiến nghị của ngoại đạo và cư sĩ, đức Phật chế định ti-khưu an cư vào mùa mưa (vũ quý).
Trong Luật tạng không quy định chi tiết về địa điểm an cư. Ngoài an cư tùng lâm, phòng xá v.v… để trú nắng trú mưa ra, còn an cư dưới gốc cây, trong phòng nhỏ, hang động thiên nhiên, rừng rú cheo leo, trên ghe thuyền, tụ lạc (nơi mọi người tập trung cư trú) v.v… (theo Tứ phần luật, Đại chánh tạng quyển 22, 832ac). Nam truyền đại tạng kinh quyển 4, Kiền độ ngọa cụ ghi, đức Phật đồng ý việc kiến lập phòng xá trong trúc lâm viên thuộc thành Vương-xá. Trong thành này có một trưởng giả đại phú quý, đã xây 16 tinh xá cho giáo đoàn như điện lầu, lầu phòng v.v… Kinh Trung A-hàm cũng có nói đức Phật và 500 bậc tỉ-khưu an cư tại Trúc lâm viên.
Luật bản Ngũ phần luật do tam tạng nước Kế Tân Phật-đà-thập và vài người cùng phiên dịch, phần An cư pháp thứ 3.3 ghi về lúc kết an cư pháp, cần phải “Trịch y bày vai phải, cởi dép, quỳ xuống chắp tay, hướng đến một tỉ-khưu thưa: ‘Trưởng lão nhất tâm niệm! Con tỉ-khưu tên gì đó, ở trụ xứ này hạ an cư, tiền tam nguyệt, nương tụ lạc nào đó, phòng xá nào đó. Nếu phòng xá hỏng, nên tu sửa. Nói ba lần như thế. Đáp rằng: ‘Con biết’”.
Tác phẩm Nghiên cứu Giáo đoàn Phật giáo nguyên thủy (原始佛教教团研究) của học giả Phật giáo Nhật Bản, tăng sĩ Tịnh độ chân tông Tả Đằng Mật Hùng (1901-2000), nêu lên hiệu ích của sự an cư là cơ hội rất tốt để tăng đoàn chuyên tâm tu học, thời gian các tỉ-khưu ở chung trú xứ cùng tụng thuyết kinh điển, thảo luận luật chế, giải quyết về các nghi vấn trong luật nghi và tiến hành giao lưu. Ba tháng an cư cũng là thúc đẩy sự phát triển đời sống tăng-già, chế định luật nghi như bố-tát, tự tứ v.v… và cung cấp khía cạnh luật chế kiện toàn.
Tứ phần luật ghi an cư có hai loại. Một là tiến an cư. Hai là hậu an cư. Đều an cư ba tháng. Tiền an cư bắt đầu từ ngày 16 tháng 4, đến ngày 16 tháng 7 thì kết thúc. Hậu an cư bắt đầu từ ngày 16 tháng 5, đến ngày 16 tháng 8 thì kết thúc. Bản luật này, quyển 58 còn nêu ra tiền an cư, trung an cư và hậu an cư. Trong đó hậu an cư là từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9.
Với sự hộ trì của các trưởng giả đã kiến thiết tinh xá và sự thành tâm của quốc vương phát tâm quy y đức Phật, khiến cho đời sống tăng-già an cư yên ổn. Trong Đại Đường Tây Vực ký quyển 8, nước Ma-kiệt-đà của đại sư Huyền Trang ghi: “Mỗi năm tỉ-khưu giải an cư, tăng lữ và tục nhân ở tứ phương, hơn ngàn, vạn người, bảy ngày bảy đêm, dâng hương hoa, trỗi âm vang trống, du hành khắp trong rừng, lễ bái cúng dường ….. Tăng đồ Ấn Độ, dựa thánh giáo Phật, tọa vũ an cư, hoặc tiền tam nguyệt, hoặc hậu tam nguyệt. Tiền tam nguyệt thì từ ngày mười sáu tháng năm đến ngày mười lăm tháng tám, hậu tam nguyệt thì từ ngày mười sáu tháng sáu đến mười lăm tháng chín.” (Lý Sâm Lâm v.v… chỉnh lý hiệu chú, Đại Đường Tây Vực ký hiệu chú, Trung Hoa thư cục xuất bản, 1985, trang 169). Tây Vực ký còn dựa vào Tứ phần luật để nói về thời gian nhập và giải an cư của Tăng đoàn: “….. Ngày mười sáu tháng tư nhập an cư, ngày mười lăm tháng bảy giải an cư”. Nam hải ký quy nạp pháp truyện của cao tăng Nghĩa Tịnh ghi “Nếu tiền an cư là nhất nhật hắc nguyệt tháng năm, nếu hậu an cư, lại là nhất nhật hắc nguyệt tháng sáu”. Hắc nguyệt, ý nghĩa là nửa đầu của tháng. Bạch nguyệt và hắc nguyệt là một khái niệm trong lịch pháp cổ Ấn Độ. Tiền hạ là đến nửa tháng 8. Hậu hạ là đến nửa tháng 9. Tăng lữ ở Yết-sương-na quốc thuộc cổ quốc Tây Vực, nhập an cư vào ngày 16 tháng 12. Giải an cư vào ngày rằm tháng 3 của năm sau. Ở Tây Vực sớm xuất hiện đông an cư, bởi do mùa hạ trời mưa lạnh ngắt.
Kinh Phật Bản Hành tập, quyển 39 nói về hậu an cư tối sơ, tại vường Lộc Uyển thuộc thành Ba-la-nại. Bản kinh ghi: “Lúc đó Thế Tôn ……. hợp tám người, an cư ngày mười sáu tháng sáu. Đến ngày rằm tháng chín, tập hợp chín mươi người để giải hạ” (kinh Phật Bản Hành tập, quyển 39, Đại chánh tạng quyển 3, 835b). Đó là lần an cư đầu tiên của đức Phật, thuộc về hậu an cư. Kinh tạng Pali Nam truyền nói, dưới sự hộ trì của trưởng giả kiết thiết tinh xá và vương quốc quy y đức Phật, đã trực tiếp thúc đẩy đời sống hình thức tập trung, đức Phật chế định tăng đoàn học xứ, tự tứ, thuyết giảng giới pháp.
Tóm lại, an cư của giáo đoàn Phật giáo nguyên thủy, là do từ thời gian và thời tiết có biến đổi trực tiếp liên quan. Dưới sự ảnh hưởng của tập tục tôn giáo Ấn Độ truyền thống và theo kiến nghị của hàng tại gia, mà đức Phật chế định an cư, chứ không phải vì mùa mưa loài côn trùng sinh sôi, sợ đạp chết côn trùng mà đức Phật chế định an cư. Trú xứ an cư không cách xa thành thị là bao, để tiện bề cho hàng tại gia cung cấp ẩm thực và thanh tịnh tâm. Với tiền an cư, tiến hành đối thủ yết-ma, báo cáo trú xứ và bối cảnh v.v… an cư. Tăng đoàn nguyên thủy an cư, cần y chỉ bậc thượng tọa thông giới và thiền tu. Thời gian an cư, nương tựa bậc thượng tọa để học tập giới luật, và sám hối để chính mình và tăng đoàn được thuần khiết và thanh tịnh.
Thích Trung Nghĩa