Đây là những lời tha thiết chúng tôi muốn được đến tận tai, vào tận lòng toàn thể các vị Phật tử tại giaChúng tôi mong được tiếng vang dội của quý vị đáp lại lòng chân thành của nó.

Trước hết, chúng tôi xin quý vị hãy thẳng thắn tỏ ra mình là Phật tử trong bất cứ trường hợp nào.

Chúng tôi cũng biết rằng tiếp xúc với người mà tỏ ra mình là Phật tử, thì có lắm khi thế là một bức màn đã hạ xuống giữa mình với họ. Nhưng tỏ ra một cách ngoan cố, hơn nữa, một cách kiêu căng, mới thành bức màn ngăn cách. Chúng ta chỉ tránh sự ngoan cố và sự kiêu căng ấy là đủ.

Còn trong mọi trường hợp, bất cứ tiếp xúc với ai, ta phải thành thật tỏ ra “mình là người Phật tử”. Điều ấy cần lắm. Vì chúng ta phải như thế để tỏ sự trung thành của mình đối với đạo pháp, để tỏ sự hợp lý của đạo pháp mình tín ngưỡng, hơn nữa, để dắt dẫn người vào đạo pháp.

Chúng tôi thấy có người nghĩ rằng mình không phải là Phật tử xứng đáng nên không dám, không muốn tỏ ra “mình là Phật tử” trước mặt mọi người. Nhưng các vị có biết cho rằng chính thế, chính điều “không muốn tỏ ra mình là Phật tử” là không xứng đáng một người Phật tử rồi không?

Huống chi Phật pháp vô thượng và vô cùng, được làm con Phật là hơn người lắm rồi, còn thật hành cho xứng đáng được bao nhiêu thì được. Ngay cái việc “tỏ ra mình là Phật tử” là một sự thực hành xứng đáng, một Phật tử khá xứng đáng rồi đó.

Có lắm người nghĩ “tự xưng hay tỏ ra mình là Phật tử” thì sợ bị người công kích. Nhưng người công kích ấy nếu là người ngoài, đối lập với tín ngưỡng chúng ta, thì họ càng công kích càng tỏ cái phải của đạo pháp ta tín ngưỡng. Ta hãy liên tưởng sự khinh chê của con chim sâu đối với con đại bàng.

Trong mọi trường hợp, bất cứ tiếp xúc với ai, ta phải thành thật tỏ ra “mình là người Phật tử”. Điều ấy cần lắm. Vì chúng ta phải như thế để tỏ sự trung thành của mình đối với đạo pháp, để tỏ sự hợp lý của đạo pháp mình tín ngưỡng, hơn nữa, để dắt dẫn người vào đạo pháp.

Còn người công kích ta nếu là người ngoài mà công kích một cách vũ phucông kích vì những sự xích mích hay những lý do khác, thì thế là họ đã phạm đến tín ngưỡng của người: Họ là người không lịch sự, nhân cách họ không xứng đáng, ta để ý làm chi. Còn nếu là Phật tử mà công kích nhau như thế thì thật là một tội lỗi lớn. Sao ta lại công kích sự “tự xưng”, sự “tỏ ra” là Phật tử?

Dầu người Phật tử khác không xứng đáng đến đâu, sự “tự xưng hoặc tỏ ra mình là Phật tử” vẫn là sự thực hành cần thiếtthành thật và đáng kính. Nay ta công kích việc ấy là ta công kích sự tu hành (đó là sự tu hành rồi vậy), sự cần thiết, sự thành thật, sự đáng kính và như vậy là công kích Đức Phật, là tự công kích mình. Tội lỗi không thể dung được. Chúng ta đừng vì tập quán “chỉ trích người, công kích người” mà phạm vào tội lỗi ấy.

Có những vị nghĩ rằng tự xưng hoặc tỏ ra “mình là Phật tử” thì ngại cho nghề nghiệp bất chánh của mình, thiệt thòi cho sự cạnh tranh quá đáng của mình, có lắm khi lại làm một sự mỉa mai cho cử chỉ và lời tiếng “không nhịn thua” của mình. Nhưng nếu thế thì sự “tự xưng là Phật tử”, sự “tỏ ra mình là Phật tử” quả là một điều vô thượng, một sự cần thiết vô cùng rồi. Sao ta không thực hành một việc giản dị mà lợi ích ấy?

Hiện nay có những người tự xưng là Phật tử mà mê tín, quấy quá. Những người này càng tự xưng là Phật tử lại càng làm cho người hiểu lầm đạo Phật. Phần đông người ta hiểu một đạo bằng cách theo thói quen nhìn vào người tự xưng là tín đồ đạo ấy. Cho nên những người mê tín, quấy quá, đã làm cho phần đông hiểu lầm đạo pháp vì sự tự xưng là Phật tử của họ.

Thế rồi có các người Phật tử khác muốn đừng lẫn lộn với những người ấy, nên không muốn tỏ ra “mình là Phật tử” mà có khi lại công kích những người ấy nữa. Ấy là một cử chỉ không đúng tí nào. Những người tự xưng là Phật tử mà làm cho người hiểu lầm đạo Phật của ta, thì giờ chính chúng ta phải tự xưng, phải tỏ ra “mình là Phật tử” để cải chính lại.

Muốn người ta không hiểu lầm Phật pháp, những người Phật tử phải tự tỏ rõ mình ra. Huống chi so với những người kia, ta còn kém nhiều: Họ thành thật và can đảm hơn một cách rõ rệt. Nói rằng họ tự xưng như thế làm cho đạo pháp bị hiểu lầm, bị ẩn khuất, thì ta cũng chẳng khác gì; ta làm cho đạo pháp bị hiểu lầm, bị ẩn khuất vì sự làm thinh, sự che giấu, sự kém thành thật, sự kém can đảm của mình.

Lắm khi cử chỉ làm thinh, không tỏ ra “mình là Phật tử” trước mọi người còn tai hại hơn: Mọi người sẽ nghĩ rằng đạo Phật có hay gì vì chính những người tín đồ cũng không muốn tỏ ra mình là Phật tử. Hại biết ngần nào?

Riêng đối với các vị Phật tử mê tín và quấy quá, ta phải tìm cách chuyển họ, chứ không được công kích. Là Phật tử mà ta công kích họ thì môi hở răng lạnh, ta công kích họ là ta gián tiếp tự công kích mình, tự gạt bỏ người đồng tín ngưỡng của mình. Họ quấy quá còn hơn những người ngoại đạo. Họ quấy quá nhưng đối với Tam bảomỉa mai thay, lắm khi còn trung thành và duy nhất hơn. Vả, xin quý vị nhớ, công kích chỉ trích không thể sửa đổi người mà chỉ gạt người ra khỏi đạo pháp.

Huống chi họ không phải là người đáng công kích. Nếu các vị chân chính mà so sánh với họ thì hoàn cảnh chẳng khác gì những người thành phố sánh với người nhà quê: Nhà quê không học thức nhưng tiền và sức của họ xây dựng lên thành phố, người thành phố hưởng của họ lại kiêu hãnh với họ một cách lố bịch.

Có lắm người nghĩ “tự xưng hay tỏ ra mình là Phật tử” thì sợ bị người công kích. Nhưng người công kích ấy nếu là người ngoài, đối lập với tín ngưỡng chúng ta, thì họ càng công kích càng tỏ cái phải của đạo pháp ta tín ngưỡng. Ta hãy liên tưởng sự khinh chê của con chim sâu đối với con đại bàng.

Trưởng lão Tỳ-kheo Thích Trí Quang

Chúng ta cũng vậy, xây dựng và duy trì đạo pháp là lực lượng chung mà ta là người phước duyên được hưởng đạo pháp khá, thế thì ta phải cám ơn người kém hơn ta mới phải, sao lại công kích? Cho nên việc ta làm là phải khuyến dẫn họ, một trong những khuyến dẫn ấy là làm sao cho họ “tỏ ra mình là Phật tử” trước mọi người và trong mọi trường hợp. Và cách khuyến dẫn hay nhất là chính ta phải làm như thế trước.

Có những người không “tỏ ra mình là Phật tử” đến nỗi không tụng kinhăn chay một cách bộc lộ công nhiên. Có khi họ đến đạo Phật với một thái độ tán thành, thiện cảm. Rồi dừng lại ở đó. Họ không muốn “tỏ ra mình là Phật tử” để cá nhân được rộng rãi hơn: Đến với ai cũng được mà không có một tín ngưỡng, một lý tưởng dứt khoát.

Điều ấy là điều mà chúng ta, nhất là người trí thức, rất không nên làm, bởi như thế là chúng ta không thành thật với chính mình, thái độ là muốn bắt cá nhiều tay.

Lại có những người Phật tử tin vào giáo lý không phân biệt nên lắm khi không những không “tỏ ra mình là Phật tử” trước những người đối lập với tín ngưỡng mình mà còn nói theo họ, làm với họ nữa. Nhưng tinh thần rộng lớn vô phân biệt là thấy ai khổ cũng cứu, mà cứu bằng cách dùng mọi phương tiện đem Phật pháp đến cho họ.

Nói khác đi, là làm sao cho họ cũng thành Phật tử. Trong những trường hợp hợp tác với người đối lập Phật phápchúng ta phải xét có thể đi đến mục đích trên, hoặc ít ra có lợi cho Phật pháp, mới được làm.

Còn khi ta là Phật tử mà hợp tác với người đối lập tín ngưỡng mình không vì chuyển hóa họ, không vì lợi ích đạo pháp, mà vì bất cứ một lý do nào, dù là lý do của cá nhân mình đi nữa, cũng hại cả.

Cái hại thứ nhất là phạm giới tam quy: Không theo thiên thần quỷ vật (ai chủ trương không có Phật pháp cũng là quỷ vật cả), không theo ngoại đạo tà giáo (thỏa mãn cách gì cho loài người mà không làm cho người tín ngưỡng Phật pháp cũng là tà giáo) và không theo tổn hữu ác đảng (ai chủ trương công kích Phật pháp cũng là tổn hữu ác đảng cả).

Cái hại thứ hai là làm theo, nói theo những người đối lập tín ngưỡng Phật pháp tức là mình tự khinh thị và làm cho họ khinh thị tín ngưỡng của mình.

Người tự trọng không bao giờ chịu nhục khi tín ngưỡng của mình bị khinh thị. Huống chi mình tự khinh thị tín ngưỡng của mình. Có người nghĩ rằng mình làm với người như thế, người sẽ khen mình quảng đại, không cố chấp, hẹp hòi, mình dũng cảm trước điều dẫu không hợp với Phật pháp.

“Khi gặp nhau giữa đường, trong chợ hay nơi hội họp, chỗ công cộng, bất cứ ở đâu, chúng ta cũng phải chào nhau, hỏi nhau, tỏ tình thân ái với nhau. Và chính điều ấy là “tỏ ra mình là Phật tử” và tỏ ra, hơn nữa, gây ra “lực lượng của Phật tử” chúng ta vậy”.

Nhưng khen thế tức là chê đấy, người ta chê sự tín ngưỡng hời hợt của mình, người ta thấy mình dễ lung lạc, tai hại hơn nữa, người ta sẽ thấy mình có thể làm trái tín ngưỡng của mình, làm trái quyền lợi của đạo mình, tức là tín ngưỡng của mình và đạo của mình không đáng gì. Nhưng quả có phải không đáng gì hay không? Chỉ mình không “tỏ ra mình là Phật tử” thì mới không đáng gì mà thôi.

Tôi từng thấy một đạo hữu hòa nhã đưa tượng Phật đeo nơi ngực ra cho một người đối lập với tín ngưỡng mình:

– Xin lỗi ngài, tôi đã là một Phật tử.

Thế là người kia tỏ ra cử chỉ hiểu biết ngay. Một thanh niên Phật tử khác từ chối hiền hòa một sự nài ép:

– Tôi là Phật tửhoạt động không hết những điều lợi người của đạo Phật rồi.

Một người khác không cúng tiền cho một tổ chức từ thiện ngoài tổ chức của đạo Phật:

– Xin lỗi ngài, chúng tôi đang làm từ thiện trong phạm vi Phật giáo của chúng tôichúng tôi là Phật tử.

Chắc các vị sẽ hiềm rằng thế nó hẹp hòi quá. Nhưng không đâu. Trong đạo pháp ta không thiếu một địa hạt nào cho ta hoạt động những điều ích lợi quần chúng.

Chỉ e chúng ta không đủ sức làm cho vừa sự đòi hỏi của đạo pháp. Các vị bị người ta công kích là “người Phật tử kém hoạt động những điều có ích”, bị công kích như thế, các vị khó chịu, nhiều vị lại hỏi sao đạo pháp ta kém hoạt động, trong khi đó, các vị đi hoạt động theo người, cho người!

Mình không làm cho mình, để bị công kích, trong khi đó đem việc làm của mình đi làm cho người để người công kích. Không những họ công kích, họ còn khinh thị mình theo đuôi họ nữa. Thật là điên đảo!

Thường thấy có nhiều người phàn nàn Phật giáo chúng ta kém tổ chức, kém thế lực, kém rầm rộ. Có lẽ nghĩ thế nên có người không “tỏ ra mình là Phật tử”. Nhưng cái kém trong Phật pháp, cái kém đáng gọi là kém, là không tu hành, không thực hành theo Phật pháp, không thành thật tỏ ra mình là Phật tử.

Còn nếu tất cả đều tỏ ra mình là Phật tử, dầu chỉ tỏ ra một cách tương đối thì tự nhiên Phật pháp ích lợi mình người. Tôi chỉ nói sự ích lợiích lợi chân thật theo Phật pháp mà thôi. Còn sự thế lực, sự rầm rộ thì có khi không hợp với Phật pháp. Ta hãy tìm nơi Phật pháp những lực lượng lẽ phải, sự rầm rộ ích lợi, còn thế lực và rầm rộ vô ích thì chắc chắn không bao giờ có.

Nói thế là tôi muốn các vị để ý hai thứ lực lượng rầm rộ. Tôi muốn nhắc lời đạo hữu Malalasekera, Hội trưởng Tổng Hội Phật giáo Thế giới chúng ta đã nói với chúng ta: “Con rắn hổ mang dương oai mà người chết, con rắn hổ đất dương oai mà người không hại gì”.

Chúng ta chỉ tỏ lực lượng rầm rộ và cần phải tỏ lực lượng rầm rộ, để mà làm việc phải làm của chúng tathực hành giáo lý của Phật. Mà muốn vậy thì “tỏ ra mình là Phật tử” cần lắm, cần thiết một cách trực tiếp trong việc ấy.

Trên đây là chúng tôi muốn nói với các vị Phật tử không “tỏ ra mình là Phật tử” vì lý do này hay vì lý do khác. Nhưng ngoài ra, có những người tự coi mình là đạo dòng của đạo Phật, ông bà cha mẹ và thân quyến mình đều là Phật tửvì vậy mà tự nhiên quá hóa ra vô lý, không “tỏ ra mình là Phật tử” trước mọi người, mọi trường hợp.

Những người ấy quả như một người Phật tử Mỹ nói “Phật tử Á Đông sống nhờ Phật pháp nhưng lâu ngày họ quên đi, ví như nhờ không khí mà loài người được sống, nhưng ít ai nhớ đến không khí”. Sự nhận xét ấy quả là đúng. Nhưng tại sao ta lại hời hợt với chính sự tín ngưỡng của chúng ta đến nỗi ấy?

Lại có người đáng khen là thường đeo tượng Phật, tượng Bồ-tát nơi ngực, nhưng không chào hỏi nhau. Phật tử chúng ta đáng lý phải giúp nhau, đồng vui đồng khổ với nhau, nhưng không được thế thì ít ra là cũng chào hỏi vui vẻ với nhau.

Khi gặp nhau giữa đường, trong chợ hay nơi hội họp, chỗ công cộng, bất cứ ở đâu, chúng ta cũng phải chào nhau, hỏi nhau, tỏ tình thân ái với nhau. Và chính điều ấy là “tỏ ra mình là Phật tử” và tỏ ra, hơn nữa, gây ra “lực lượng của Phật tử” chúng ta vậy.

Biết sự “tỏ ra mình là Phật tử” là cần thiết rồi, vậy mong toàn thể các vị Phật tử tại gia hãy chú ý mấy điều tối thiểu sau đây:

– Thường đeo tượng Phật.

– Thường chào hỏi các thầy và chào hỏi nhau.

– Thẳng thắn tỏ ra mình là Phật tử trong mọi trường hợp.

– Không nói và làm theo người đối lập với đạo pháp của mình khi thấy sự nói và việc làm ấy không chuyển hóa được họ, không lợi cho danh dự và quyền lợi của đạo pháp mình tôn thờ.

– Tự mình và khuyên cả nhà ăn chay mỗi tháng hai ngày rằm và mồng một.

– Tự mình và toàn gia hãy niệm Phật to tiếng (niệm to) mỗi tối trước khi đi ngủ. Đọc được bài Sám hối càng tốt. Hãy ngồi trên giường ngủ mà niệm và đọc.

– Mỗi tháng đến chùa hay niệm Phật đường ít nhất một lần.

Không cần nói người xưa, hiện bây giờ đây vẫn có những người phật tử uống thuốc độc để “tỏ ra mình là Phật tử”, có những em Phật tử quyết liệt “tỏ ra mình là Phật tử” trước sự thù ghét, dọa nạt.

Có những đạo hữu và những em Phật tử tin tưởng ở Phật, tin lý nhân quảthản nhiên thờ Phậttụng kinhăn chay như thường ở những nơi thôn dã bây giờ, bao bọc chung quanh họ đầy sự đe dọa trực tiếp đến tính mạng.

Đức Phật vô thượngPhật pháp vô thượng, được vinh dự làm Phật tử, ta hãy “tỏ ra mình là Phật tử” để xứng đáng với vinh dự ấy.

8-5-2495

Trưởng lão Tỷ kheo Trí Quang

(Trích theo Tâm ảnh lục, tập 2, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2020, trang 312-323)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Giác Hải Vô Biên, Hồi Đầu Tức Thị Bỉ Ngạn
Luận, Phật học

Giác Hải Vô Biên, Hồi Đầu Tức Thị Bỉ Ngạn 覺海無邊回頭即是彼岸 Đời người là một cuộc hành trình dài, nhưng lại ngắn ngủi đến không ngờ. Ta khởi đi từ đâu và đích đến là đâu? Câu hỏi ấy không cần ở đâu xa, mà cần sự hồi quang (quay lại nhìn) vào chính tâm...

So Sánh Trung Đạo Và Trung Quán
Luận, Phật học

Sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già Uruvela, một địa danh gần Bodh Gaya ngày nay, thân thể Đức Phật tiều tụy đến mức người ta tưởng Ngài đã chết. Ngài từng chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo mỗi ngày, ngồi thiền giữa giá lạnh, không tắm rửa, không nói chuyện. Ngài hy vọng bằng cách hành hạ thân xác, sẽ đạt được giác ngộ....

Tu tập Bốn như ý túc
Kinh, Phật học

Đức Phật không dạy đệ tử mù quáng tin, ngay cả các tầng định khi thiền, mà luôn yêu cầu tự quán sát, tự chứng nghiệm, tránh rơi vào cực đoan tín ngưỡng. Phần I. Kinh Tương ưng bộ, Chương Bảy: Tương ưng Như ý túc, Phẩm Lầu Rung Chuyển “Có bốn như ý túc...

Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận
Luận, Phật học

Qua Trung Quán Luận của Long Thọ giới thiệu rõ, sự ra đời, văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết học tư tưởng Trung đạo, kết cấu của Trung Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song cách phân chia kết cấu có khác nhau… Long Thọ (Nagarjuna)...

Phật thuyết nhất thiết Như Lai danh hiệu Đà La ni kinh
Kinh, Phật học

Hán dịch: Pháp Hiền Đại Sư phụng chiếu dịch Việt dịch: Cư sĩ Nguyện Huy dịch sang Việt văn Hòa thượng Thích Như Điển chứng nghĩa Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại Pháp dã đại Bồ Đề Đạo tràng ở nước Ma Già Đà. Khi vừa thành Chánh giác, có các chúng Bồ...

Phật thuyết kinh ‘Làm con năm người Mẹ’
Kinh, Phật học

Dẫn nhập “Một vật sinh ra, cái gì đích thân cho nó cường lực, đó gọi là Nhân; cái gì thêm thắt nhược lực vào thì gọi là Duyên” Phải chăng Đại tạng kinh Nam (cảo bản) lâu nay khép mình chùa Long Sơn Nha Trang, từ khi Hòa thượng Đỗng Minh thuận thế vô...

Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên
Luật, Phật học

Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộ là thiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ...

Bản thể luận Phật giáo trong kinh A Di Đà
Kinh, Phật học

Cũng vậy, Thực tướng hay bản thể tối hậu trong kinh A Di Đà chính là một chỉnh thể bao gồm cả tính không (bản thể) và tính có (hiện tượng). Hai mặt mày là cùng một thể không tách rời. Trong hệ thống tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa, bản thể luận...

Giới thiệu kinh Kim Cang
Kinh, Phật học

GIỚI THIỆU KINH KIM CANG Edward Conze Dịch Việt: Nhuận Châu từ Vajracchedikā Prajñāpāramitā do Edward Conze biên tập và phiên dịch Vấn đề văn bản Bản kinh được in trong ấn bản nầy chủ yếu là của Max Müller.[1] Tôi có ghi thêm phần phân bổ trang của ông trong dấu ngoặc vuông,[2] để người đọc có...

Hạnh Phúc Bởi “Không”
Luận, Phật học

Trong dòng chảy hối hả của cuộc đời, hầu như ai cũng từng tin rằng hạnh phúc là phải “có thật nhiều”, mà quên mất rằng chính cái “Có” ấy lại là ngọn nguồn của muộn phiền. Chúng ta mặc định rằng, hạnh phúc là khi mình “Có”: có một căn nhà khang trang, có chiếc xe sang trọng, có thật nhiều tiền bạc,...

Khái niệm Phật độ qua kinh điển
Kinh, Phật học

DẪN NHẬP Ngược dòng lịch sử Phật giáo Ấn Độ, có lần Đức Phật được hai anh em xuất thân trong dòng Bà-la-môn tên là Yameru và Tekula vì ngưỡng mộ giáo lý của Phật họ đã xuất gia làm Tỳ kheo. Họ cho rằng truyền bá giáo lý vi diệu thù thắng của Phật...

An Cư Kiết Hạ Theo “Tứ Phần Luật”
Luật, Phật học

An cư là chế định quan trọng trong đời sống tu tập của Tăng đoàn Phật giáo, giúp tăng sĩ ổn định tinh thần và thân thể để chuyên tâm tu học. Trong Tứ phần luật và các bộ luật Phật giáo nguyên thủy, an cư thể hiện sự quy củ, thanh tịnh của tăng...

Giới luật cư sĩ trong kinh điển Pali
Luật, Phật học

Giới luật dành cho người cư sĩ trong kinh điển Pāli, đặc biệt được làm rõ trong kinh Sigālovāda và được soi sáng bởi các nguyên lý như trung đạo, tâm từ, nghiệp và tinh tấn, không chỉ đơn thuần là những quy tắc đạo đức khô khan. Tóm tắt: Bài viết này khảo sát nền...

Sáu điểm tương đồng và hai điểm khác biệt trong ba bộ Kinh Tịnh Độ
Kinh, Phật học

Ba bộ Kinh Tịnh Độ là những bản kinh nền tảng của Tịnh Độ tông, một pháp môn Phật giáo quan trọng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết, với mục đích duy nhất là dẫn dắt chúng sinh phát nguyện vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà...

Từ tín ngưỡng đến bất hoại tín
Kinh, Phật học

Trong xã hội công nghệ hiện đại ngày nay, trước làn sóng thông tin đa chiều, với vô số tin tức, hình ảnh báo chí thật hư lẫn lộn, nhiều kẻ lừa đảo, mượn đạo tạo đời, tự đánh bóng mình bằng các chiêu trò lừa bịp tinh vi, nhắm vào tâm lí ủy mị,...

Vay Trả Trả Vay (Tâm Lý Học Siêu Hình Của Phật Giáo)
Luận, Phật học

“Vay trả, trả vay” là công năng, hoạt dụng và địa vị của thức (năng-hoạt-vị thức) biến chuyển khiến vòng saṃsāra (luân hồi) luôn tiếp diễn. Có lẽ chúng ta chẳng ngỡ ngàng gì với nghi vấn: “Sau khi chết là hết?” hay “sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?”, mà nó đã quá xa xưa và cổ hủ đối với người phương Đông nói chung...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.