Vậy là hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, kể từ một đêm khu rừng hoang vắng bên bờ sông Ni-liên-thuyền (Nairanjama), ánh trăng chiếu lờ mờ bàng bạc trong không gian hoàn toàn im ắng, cô tịch. Khu rừng chìm trong màn đêm huyền ảothỉnh thoảng có âm vang những tiếng muông thú kêu trong đêm trường nghe rờn rợn, tiếng côn trùng nỉ non nghe như giai điệu của một bản nhạc buồn, tiếng lá kêu xào xạc dưới bước chân của những con thú đi ăn đêm.

Tất cả những âm thanh  của núi rừng dó tạo nên một sự thâm u huyền bí, tất cả chỉ là minh họa cho sự tỉnh lặng của núi rừng đang chìm trong  ánh trăng huyền ảoDưới gốc cây tât-bat-la cổ thụ ánh trăng chiếu lờ mờ hình bóng một hành giả đang ngồi tham thiền nhập định. Khuôn mặt của ngài uy nghiêm trầm tỉnh, đôi mắt hé mở nhìn vào một khoảng không trước mặt, với vẻ trầm mặc, tỉnh lặng như thế không ai biết rằng hình ảnh một vị hành giả cô đơn trong đêm trường vắng lặng nơi rừng già thăm thẳm năm ấy đang có một sự chuyển động lớn từ trong tâm thức. Chỉ một thời khắc nữa thôi, khi những tiếng gáy của những con gà rừng báo hiệu sang canh là vị hành giả ấy đã chứng ngộ đạo quả sau bốn mươi chín ngày đêm chí tâm tham thiền nhập định.

Những gì tiếp theo sau đó là những sự chứng ngộ tâm thức của ngài cho đến khi sao mai mọc ở cuối trời xa thì ngài hoàn toàn giác ngộ chứng tam minhlục thông và chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giácHành giả đó không ai khác hơn là là vị thái tử Tất-đạt-đa trước đây của nước Ca-tỳ-la-vệ  đã từ bỏ ngôi vị đông cung thái tửtừ bỏ tất cả mọi thứ tiện nghi vật chất, mọi thứ dục lạc thế gian  mà ngài đang có để dấn thân tìm chân lý giải thoát khổ đau cho vạn loại chúng sinh. Một thân một mình đi vào nơi rừng sâu núi cao, hai lần học đạo đã chứng thành nhưng ngài nhận ra đây chưa phải là con đường giác ngộ rốt ráo. Thế là ngài lại ra đi cùng với những hành giả khác suốt sáu năm ròng tu tập khổ hạnhép xác đến  nổi thân thể gầy còm chỉ còn da bọc xương thân tàn lực kiệt đến nỗi ngất lịm suýt chết. Sau khi tỉnh lại, ngài  thọ bát sữa do nàng Sujata dâng và nghiệm ra rằng lối tu khổ hạnh đày đọa thân xác đó cũng không đem laị lợi ích gì cho sự chứng ngộ. Vậy là từ bỏ lối tu khổ hạnh ép xác ngài đã tự chọn cho mình một lối tu hoàn toàn mới do ngài tự nghiệm ra là tham thiền nhập địnhquán sát vũ trụ và nhân sinhquán sát nỗi khổ của chúng sanh sinh tử trong vòng luân hồi để tìm ra chân lý vượt thoát. Cuối cùng sau bốn mươi ngày đêm tham điền nhập định ngài đã chứng đạo và lời đầu tiên của Đức Phật sau khi chứng ngộ là là: “Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồiNhư Lai thênh thang đi đi mãi. Như Lai đi tìm mãi mà không gặp. Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này. Lập đi lập lại đời sống quả là phiền muộn. Này hỡi người thợ làm nhà, Như Lai đã tìm được ngươi. Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông của ngươi dựng nên cũng bị phá tan. Như Lai đã chứng quả Vô sanh bất diệt và Như Lai đã tận diệt mọi ái dục.”

Sau khi thành đạo Đức Phật đã dùng thời gian còn lại của cuộc đời là bốn mươi lăm năm du hóa, hoằng truyền chánh pháp cho hàng triệu phật tử xuất gia cũng như tại gia. Quan trọng hơn hết là giáo pháp ấy đã góp phần đưa nhân loại ra khỏi những khổ đau chồng chất của kiếp nhân sinh và được lưu truyền cho đến hôm nay và mãi mãi về sau.

Trong Kinh điển Phật giáo Nguyên Thủysự kiện Đức Phật lịch sử thành đạo được mô tả một cách chi tiết và cụ thể, vào một thời điểm và địa điểm cụ thểThánh tích Bồ-đề Đạo Tràng nơi Đức Phật thảnh đạo cũng như các thánh tích khác như nơi Đức Phật đản sanh, Đức Phật chuyển pháp luânĐức Phật nhập niết bàn hiện vẫn được tôn tạo gọi là Tứ Động Tâm cho tín đồ Phật giáo khắp nơi về hành hươngchiêm bái.  Điều này thuyết phục tất cả những ai có những hoài nghi về thân thế của đức giáo chủ đạo phật.

Đức Phật đã tự mình tu tập chứng ngộ, một phát hiện chân lý hết sức bất ngờ  nên ngài đã thốt lên: “ Lạ thay, lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có  đầy đủ đức tướng, trí tuệ của như lai, vì các thứ vọng tưởng chấp trước che mờ bèn thành lưu chuyển trong sanh tử”Vì thế suốt bốn mươi lăm năm hoằng hóa ngài đã mang đến cho nhân loại một thông điệp là: TẤT CẢ CHÚNG SANH ĐỀU CÓ PHẬT TÁNH,và đức Phật đã kết luận: TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH CÒN CHÚNG SANH LÀ PHẬT SẼ THÀNH. Đức Phật  không có công năng cứu rỗi, ngài chỉ nhận mình là bậc đạo sư là người chỉ đường đi đến giải thoátđi theo hay không là quyền của chúng sanh,  hoặc chỉ là một vị thầy thuốc tùy bệnh mà cho thuốc, uống hay không là tùy người bệnh..Vì thế bất kỳ ai nếu muốn được giác ngộ giải thoát khổ đau ra khỏi luân hồi lục đạo thì y cứ vào giáo lý Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo mà tu tập sẽ được thành tựu như sở nguyện.

Đối với quan điểm Đại Thừa Phật Giáo phát triển thì sự kiện Đức Phật thành đạo là một sự thị hiện giữa cõi Ta-bà để tạo một dấu ấn thuyết phục cho chúng sanh, chứ thực ra Đức Phật bản thể vốn không sinh không diệt và ngài thành đạo từ vô lượng kiếp. Ngài quán sát thấy chúng sanh cứ ngụp lặn mãi trong vòng luân hồi lục đạo không có ngày thoát ra khỏi. Đức Phật đã chọn thác sanh tại Ấn Độ, một nơi được xem như có một nền văn minh cổ đại nhất hành tinh, đồng thời cũng là nơi mà sự phân chia giai cấp của con người, sự bất công của xã hội cũng  được xem là nghiêm trọng nhất hành tinh. Một xã hội đầy rẫy những mâu thuẫn và nghịch lý, một xã hội đầy bất công và sự đàn áp giữa những người ở giai cấp trên đối với người ở giai cấp thấp hèn là tàn bạo nhất. Đức Phật đã thị hiện  thác sanh vào dòng họ Thích-ca với vị thế của một đông cung thái tử sẽ là vua nước Ca-tỳ-la-vệ, bao nhiêu tiện nghi hưởng thụ ngài đều có hết, bao nhiêu dục lạc thế gian ngài đều không thiếu. Một địa vị mà hàng triệu người không dám mơ ước, thế nhưng ngài đã rũ bỏ tất cả không một chút tiếc nuối. Điều ngài cần cao thượng hơn nhiều là tìm ra con đường cứu chúng sanh vượt thoát khổ đau, thế là ngài đã vứt bỏ tất cả để tìm chân lý. Ngài đã bỏ tất cả những gì tầm thường nhất để rồi có tất cả những gì cao quý nhất!. Đức Phật thị hiện Ta-bà  chỉ với một đại nguyện: KHAI THỊ CHÚNG SANH NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN như ngài đã tuyên thuyết trong kinh Pháp Hoa. Chỉ cho chúng sanh thấy rõ được tri kiến Phật tức là khai mở cho chúng sanh thấy được phật tánh trong từng chúng sanh để mà tu tập và thực hành bồ-tát đạo, thực hành hạnh nguyện tự lợi và lợi tha, trong đó lợi tha được đưa lên trước. Vì lợi ích của chúng sanh được xem như là mục đích tôn chỉ của hành giả. Bồ-tát đạo là chí nguyện cốt tủy của Đại Thừa Phật giáomục đích thành tựu của hành giả là chứng Bồ-tát quả vị chứ không phải là A-la-hán như quan điểm của Phật Giáo Nguyên Thủy.

Khi xét về ý nghĩa của ngày Đức Phật thành đạo chúng ta cần phải soi xét cả hai phương diện, là sự thành đạo của Đức Phật lịch sử và sự thị hiện của Đức Phật bản thể. Với sự thành đạo của Đức Phật lịch sử thì chúng ta đã được thấy một cách cụ thể qua lịch sử và kinh điển ghi lại, các thánh tích còn ghi dấu tích của ngài đã quá rõ ràngHành trình hoằng pháp của ngài suốt bốn mươi lăm năm trên lưu vực sông HằngẤn Độ, đã có vô số chúng sanh có thiện duyên được ngài giáo hóa trở thành đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Đức Phật. Trước khi thuyết giáo ngài đã dùng thân giáo để hóa độ chúng sanh, suốt cuộc đời ngài luôn là  những bài học hữu ích và sống động cho hàng đệ tử noi theo tu tập. Những năm tháng ngài du hóa khắp nơi hầu hết những người đến quy y làm đệ tử Phật trước hết là họ ngưỡng mộ thân tướng và hành vi của Đức Phật trước khi được nghe giáo thuyết của ngài. Trong khi đó giáo lý Đại Thừa  đã mở ra cho cho đạo Phật một con đường mới rộng rãithênh thang và thoáng đạt với sự dấn thân phụng sự chúng sanh, không đợi khi chứng quả mới bắt đầu hành trình hoằng hóa mà vừa tu tập vừa hóa độ cho tha nhân,  đó là hạnh nguyện  bồ-tát.  Bồ-tát đạo lấy Bồ-đề tâm làm nguyện, lấy Lục Độ Ba-la-mật gồm bố thítrì giớinhẫn nhụctinh tấnthiền địnhtrí huệ làm phương tiện thực hành, lấy Tứ Nhiếp Pháp gồm pháp bố-thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự làm phương pháp  thâu nhiếp, thu phục chúng sanh, lấy Tứ Vô Lượng Tâm làm nền tảng căn bản tiếp cận chúng sanh.  Điều đáng chú ý là dù thực hành Lục Độ Ba-la-mật hay Tứ Nhiếp Pháp thì bồ-tát luôn đặt sự bố thí lên hàng đầu. Bố thí của bồ-tát hạnh thì dù đó là tái thí, pháp thí hay vô úy thí cũng không đơn thuần là sự cho đi, mà là bố thí trên tinh thần “tam luân không tịch” tức là không bố thí mà không thấy có người cho, không thấy có người thọ nhận, không thấy có của cho và nhận. Tinh thần ấy được Đức Phật nói trong Kinh Kim Cang là bố thì không trụ tướng, không có tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả: “Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp mà bố thí.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ- tát không trụ nơi tướng mà bố thí, thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường”.

Bồ-tát đạo cũng được Đức Phật tuyên thuyết trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới qua hình ảnh  Bồ-tát Văn Thù tượng trưng cho trí huệ bát nhã khuyên Thiện Tài đồng tử tham vấn 53 vị thiện tri thức để tìm cầu học đạohành trình của Thiện Tài đồng tử là quá trình cầu đạo và tu chứng. Biểu hiện cho các giai đoạn chứng ngộ và đi vào Pháp giới từ quả vị Bồ-tát thập tíncho đến thập trụthập hạnhthập hồi hướng và thập địa.

Thông điệp thành đạo của Đức Phật bản thể là những sứ giả như lai, những hành giả trên hành trình tu tập và hoằng hóa cần khởi phát bồ-dề tâm và hành bồ-tát đạo, đó là tâm nguyện và pháp hànhTư tưởng Đại Thừa Phật Giáo rất cởi mở và thoáng đạt, đồng thời với tâm nguyện  đặt nặng tinh thần phụng sự chúng sanh lên trên hết đã đưa Phật giáo ngày càng lan tỏa sâu rộng hơn trong cộng đồng nhân loại…

Tâm Lễ – Nguyễn Ngọc Luật

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Nhập Trung Quán Luận
Luận, Phật học

NHẬP TRUNG QUÁN LUẬN Nguyệt Xứng (Candrakīrti, 560-640) TÀI LIỆU GIÁO KHOA TU HỌC Huynh Trưởng bậc Lực Gia Đình Phật Tử Việt Nam THÍCH NHUẬN CHÂU biên dịch LỜI DẪN Nhập Trung quán, là đi vào tinh thần Trung đạo, siêu việt các cực đoan có, không, như trong bài kệ Bát bất của...

Luận Thích Du Già Sư Địa
Luận, Phật học

Luận Thích Du Già Sư Địa Tối Thắng Tử Đẳng tạo, Đường Huyền Tráng dịch Bản Việt dịch của Thích Tâm Châu Kính lễ Thiên Nhân Ðại-Giác-Tôn,[4] Phúc-đức, trí-tuệ đều viên mãn. Vô thượng, văn-nghĩa pháp chân-diệu, Thụ học, chính tri Thánh Hiền chúng. Ðỉnh lễ Vô Thắng Ðại Từ-thị, Mong các hữu tình chung lợi...

Luận ngũ uẩn
Luận, Phật học

Luận ngũ uẩn Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) – Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng – Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh Đức Thế Tôn nói về Ngũ uẩn: Sắc uẩn; Thọ uẩn; Tưởng uẩn; Hành uẩn; Thức uẩn. Sắc uẩn là gì? Là bốn đại chủng 1 và những...

Đức Phổ Hiền Bồ-tát với pháp môn Tịnh độ
Phật học

Khi nhắc đến Tịnh Độ, chúng ta đều nghĩ tới hình ảnh Tây phương Tam Thánh, đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, và Bồ-tát Đại Thế Chí. Ba vị thánh này ở cõi nước Cực Lạc phương Tây, trong đó đức Phật A-di-đà là vị giáo chủ, còn đức Quán Âm và Thế Chí...

Nghi Thức Truyền Giới Cho Thập Thiện Và Bồ Tát Tại Gia
Luật, Phật học

TỰA Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trì và hoằng dương chánh pháp, song song với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Sở dĩ được như thế, là do tinh thần cùng học cùng tu hòa hợp như nước với sữa. Tinh thần ấy càng được củng cố và phát triển thì giáo...

Một số vấn đề trong A tỳ đàm
Luận, Phật học

Không hài lòng với việc phân loại thực tại (các pháp) thành các uẩn, xứ và giới, các bộ phái ngày càng thấy nhu cầu thảo ra một danh sách tổng thể các pháp, và việc này đã đưa đến một liệt kê khá cụ thể cho các mục tiêu thiền quán về những thành...

Tìm hiểu tổng lược về Bộ kinh Milindapañha
Kinh, Phật học

Bộ kinh phản ánh đầy đủ giáo lý căn bản trong Kinh tạng Pāli của Phật giáo Theraveda, “những vấn đề được đề cập hoàn toàn là tinh yếu của Tam Tạng Pàli văn, ít bị pha tạp tư tưởng và kiến giải của các bộ phái phát triển sau này” I. Tổng lược Kinh Milindapañha...

Giới thiệu kinh ‘Chuyện vua Thập Xa’
Kinh, Phật học

Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu đến quí Phật tử từng mẩu chuyện trong kinh Tạp bảo tạng (雜寶藏經 ‘Saṃyukta-ratna-piṭaka-sūtra’), 10 quyển, do ngài Cát-ca-dạ (Kiṅkara, dịch là Hà sự, người Tây Vực) và Đàm Diệu (Tăng nhân thời Bắc Ngụy, năm sinh, mất và quê quán không rõ) dịch thời Nguyên Ngụy (A.D...

Luật tạng trong tổ chức Tăng đoàn ngày nay tại Việt Nam
Luật, Phật học

Tăng đoàn (Sangha) là những người nguyện sống với đời sống hoà hợp, để hổ trợ cho nhau thực hiện đời sống Giải thoát và Giác ngộ. I.  Luật tạng trong tổ chức tăng đoàn. Định nghĩa về tăng, Thiền sư Nhất Hạnh viết: “Tăng là đoàn thể đẹp Cùng đi trên đường vui Tu...

Kinh Chuyển Pháp Luân – Tỳ Kheo Hộ Pháp
Kinh, Phật học

Ba Ngày Lịch Sử Trọng Đại Trong Phật-Giáo  Theo truyền thồng Phật-Giáo-Nguyên-Thuỷ có 3 ngày lịch sử trọng đại như sau: 1– Ngày rằm tháng tư (âm-lịch) có 3 sự kiện lịch sử trọng đại trùng hợp theo thời gian khác nhau: * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đản-sinh kiếp chót, * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama,...

Những điều cần biết về ăn trộm Tăng tướng và lối tu Đầu đà khổ hạnh theo giới luật của Đức Phật
Luật, Phật học

Lối tu Đầu đà khổ hạnh và giới luật của Đức Phật là những khía cạnh quan trọng trong Phật giáo. PHẦN I: LUẬT PHẬT DO AI QUY ĐỊNH? 1) Hỏi: Luật Phật là gì? Ai là người chế định ra Luật Phật? Đáp: Luật Phật là khái niệm cho tất cả quy định về giới...

Sơ Quát về ba pháp môn Chỉ-Quán-Thiền trong kinh Thủ Lăng Nghiêm qua Duy Thức Học
Kinh, Phật học

Pháp Tứ Niệm Xứ Quán giúp tâm niệm được an trú mà liễu tường được các nhân duyên sinh khởi, rõ được 4 chỗ Thân- Thọ- Tâm- Pháp đều không có thực thể, không có tự tánh. Quán liễu được như vậy khiến giúp chủ thể Năng Quán không còn khởi sinh. Điều này có...

Học và ứng dụng giới luật Phật giáo trong đời sống tu tập
Luật, Phật học

Phật giáo do Đức Phật sáng lập là một tổ chức gồm có ba thành phần tạo nên là Phật, Pháp và Tăng, còn gọi là Tam bảo. Trong đó, Đức Phật là bậc Thầy vĩ đại và là tấm gương cao thượng để các đệ tử học tập theo, giáo pháp là con đường...

Tư tưởng “không sát sinh” trong Tứ bộ A hàm kinh
Kinh, Phật học

Sự sống vô cùng quý giá, bất kể là ai, tôn giáo nào, xã hội nào và quốc gia nào. Mọi người mọi loại dù là hữu tình hay vô tình luôn luôn tôn trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, từ sự sống của côn trùng cho đến sự sống của cỏ cây....

Luận “Sa môn bất kính vương giả”
Luận, Phật học

Khi một tu sĩ không giữ mình, không có giới hạnh, lại dùng tà thuyết chiêu dụ mê hoặc, thì không còn tư cách làm thầy làm sư, thậm chí còn thấp hơn người thế tục; khi đó họ nhận nhân quả – bị phỉ báng cũng là tất yếu. “Sa môn bất kính vương...

Tư tưởng Long Thọ trùng phùng trên nẻo đường quê hương
Phật học

(TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ THÍCH TUỆ SỸ) Thầy sinh ra và lớn lên tại thành phố Paksé, tỉnh Champasak, Lào; năm chín tuổi được phụ mẫu gửi vào ngôi chùa làng gần nhà (chùa Trang Nghiêm) hành điệu. Thiên bẩm thông minh, học đâu nhớ đó, điều này khiến cho thân mẫu lo sợ, liên...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.