Trang trí hoa văn chữ Vạn ở lăng Khải Định – Huế là một ví dụ cụ thể, bên cạnh các yếu tố thẩm mỹ, nó còn thể hiện một đời sống tâm hồn giàu chất mỹ cảm nguyên sơ mà phong phú, hòa quyện với đời sống tâm linh mang màu sắc Phật giáo sâu sắc.

Dẫn nhập

Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, do vậy văn hóa – mỹ thuật thời Nguyễn còn giữ lại được nhiều giá trị tạo hình mật thiết, gắn liền với đời sống văn hóa – tâm linh của người dân Huế. Trong đó có những kiểu thức, đề tài trang trí có ý nghĩa lớn lao đối với việc nuôi dưỡng những giá trị tu thân của con người. Những giá trị đó được vun đắp, tỏa sáng trong tâm thức của người Việt và vẫn còn được lưu giữ cho đến nay.

Bên cạnh giá trị về mặt nghệ thuật, kiến trúc cung đình triều Nguyễn còn mang nhiều thành tố của văn hoá và tôn giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo – Khi Kinh đô Huế triều Nguyễn từng là thủ đô của Phật giáo một thời.

Trong các công trình kiến trúc, lăng tẩm Huế triều Nguyễn, mỹ thuật đã phát triển khá toàn diện, phản ảnh nhiều lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước. Do đó, lịch sử tư tưởng và nghệ thuật Phật giáo cũng đã được nói qua ngôn ngữ nghệ thuật từ xưa tới nay.

Trong đó lăng Khải Định – được đánh giá như một viện bảo tàng, với ngoại cảnh thiên nhiên bao la hùng vĩ, là một tác phẩm mỹ thuật tổng hoà của nhiều dòng văn hoá, một điểm giao thoa giữa mỹ thuật kim cổ đông tây và mang nhiều dấu ấn Phật giáo.

Dấu ấn đó được thể hiện thông qua nhiều chi tiết và hoa văn trang trí, đặc biệt là hoa văn chữ “Vạn”, qua đó ý nghĩa trong lời Phật dạy sẽ được tìm thấy trên các ngôn ngữ của hiện vật.

Lăng Khải Định tại thị xã Hương Thuỷ, Thừa Thiên Huế – Ảnh: St

1. Giới thiệu sơ lược lăng Khải Định – Huế

Vua Khải Định (8 tháng 10 năm 1885 – 6 tháng 11 năm 1925), tên khai sinh Nguyễn Phúc Bửu Đảo, là vị hoàng đế thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông được truy tôn miếu hiệu là Hoằng Tông.

Năm 1920 vua Khải Định cho tiến hành xây dựng lăng Khải Định kéo dài đến năm 1931 mới xong (khi ấy vua Khải Định đã
băng hà). Năm 1920, sau khi các thầy đại đi coi đất và chọn địa điểm xong, “triều đình phải huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên làm việc khổ sai tại đó: mở đường, phá núi, làm toại đạo, tạo ra mặt bằng xây dựng ở triền phía tây của một ngọn núi thuộc vùng Châu Chử”(1).

Lăng Khải Định được xây dựng nên bởi các thợ thủ công có tay nghề cao, chi phí cao, đạt được thành tựu trong công trình kiến trúc và nghệ thuật trang trí khiến lăng trở nên độc đáo, mang nhiều giá trị về nghệ thuật.

Lăng Khải Định trở nên thú vị hơn với các bức tranh “hoạ long vân” trên trần và nghệ thuật đắp nổi cảnh vật lên tường, được vẽ bởi nghệ nhân Phan Văn Tánh; bên cạnh đó là các bức phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh, đặc biệt chiếc Bửu tán với những đường lượn mềm mại, thanh thoát được đặt trên pho tượng đồng Khải Định được đúc tại Pháp năm 1922.

Lăng Khải Định được đánh giá là đỉnh cao của kiến trúc lăng tẩm thời Nguyễn, là sự kết hợp tinh tế của kiến trúc, văn hoá Đông và Tây, được thiết kế công phu, tinh xảo, lộng lẫy, phản ánh được sự khéo léo của các nghệ nhân và các thợ thủ công khắp các miền hội tụ.

2. Hoa văn chữ vạn

Chữ Vạn hoặc swastika 卐 /sauwastika 卍 là một dạng hình học đồng thời là một biểu tượng tôn giáo cổ xưa trong các nền văn hóa của Á-Âu. Tên chữ Vạn (swastika) xuất phát từ tiếng Phạn có nghĩa là “có lợi cho hạnh phúc” hoặc “tốt lành”.

Chữ Vạn là một biểu tượng được tìm thấy rộng rãi trong lịch sử loài người ở nhiều dân tộc. Nó được sử dụng như một biểu tượng của thần linh và tâm linh trong các tôn giáo Ấn Độ. Trong thế giới phương Tây, nó là biểu tượng của điềm lành và may mắn. Trong Ấn Độ giáo, là biểu tượng thịnh vượng và may mắn, tượng trưng cho ban đêm hoặc khía cạnh Mật tông của Kali. Trong Jaina giáo, chữ Vạn là biểu tượng cho Suparshvanatha – vị thầy tâm linh và vị cứu tinh. Trong một số tôn giáo Ấn – Âu lớn, chữ Vạn tượng trưng cho những tia sét, đại diện cho thần sấm sét và vua của các vị thần…

Đặc biệt chữ Vạn có rất nhiều ý nghĩa tốt đẹp trong Phật giáo như: chữ Vạn đại diện cho tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật (theo quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa), biểu thị công đức trang nghiêm. Trong kinh Đại Bát Nhã quyển 381 nói rằng: chân tay và trước ngực của Phật đều có “Cát tướng hỷ toàn” để biểu thị công đức của Phật, tức là chữ Vạn. Ngài Cưu Ma La Thập và Huyền Trang dịch chữ Vạn là chữ Đức, ngài Bồ Đề Lưu Chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Thời Võ Tắc Thiên, cho rằng chữ này có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành.

Hoa văn chữ Vạn là sự kết hợp hài hoà, thống nhất, đồng điệu giữa các dạng hình học chữ Vạn với nhau cùng các nét vẽ khác, được cách điệu, biến tấu để đẹp hơn nhằm trang trí lên các hiện vật, đình, đền, đài và các công trình kiến trúc khác. Ở Việt Nam chúng ta, hoa văn chữ Vạn được sử dụng rất nhiều trong trang trí và ngày càng phổ biến hơn. Đặc biệt hoa văn chữ Vạn xuất hiện rất nhiều trong mỹ thuật cung đình thời Nguyễn – Huế, mang nhiều ý nghĩa cao đẹp đại diện cho thời kỳ hưng thịnh mang vai trò như một quốc giáo của đạo Phật vào thời gian này.

Trong đó đặc biệt phải kể đến hoa văn chữ Vạn được trang trí tại lăng Khải Định – Huế với mật độ dày đặc bao phủ gần như toàn bộ bức tường điện Khải Thành là tiêu biểu cho thấy “Huế còn cho ta thấy được khuynh hướng tôn giáo và thần bí”(2) như tác giả Hồ Vĩnh có nhận xét trong quyển sách Dấu tích văn hoá thời Nguyễn. Sự trang trí hoa văn chữ Vạn ở đây đã vượt qua các giá trị về mặt thẩm mỹ để hướng đến các giá trị tâm linh sâu sắc.

3. Trang trí hoa văn chữ Vạn tại lăng Khải Định – Huế

Khi vừa bước vào khuôn viên lăng Khải Định đến sân chầu chúng ta có thể thấy rất nhiều hoa văn trang trí trên các bia đá, tượng rồng bậc cấp, trụ biểu… mang một nét rêu phong và cổ kính.

Tuy các hoa văn không được lộng lẫy, có màu sắc và rõ nét như bên trong điện Khải Thành nhưng các hoa văn ở đây đã được tạo hình tỉ mỉ, rõ ràng và chỉ có một màu xi – măng. Hoa văn chữ Vạn xuất hiện ngay trên bia đá như một sự chế ngự, hỗ trợ, linh thiêng giữa đất trời mà chúng ta có thể thấy. Hoa văn ở đây chỉ bao gồm một chữ Vạn duy nhất trang trí ở chính giữa trên mái che tầng hai của bi đình.

Đến Điện Khải Thành mới có sự xuất hiện dày đặc của hoa văn chữ “vạn” như bao trùm cả bức tường của điện và hai bên tả, hữu trực phòng. Hoa văn chữ Vạn ở đây được tạo hình vuông vức, không cách điệu, nối liền nhau một cách liên tục theo kiểu vecto, được xếp nghiêng một góc khoảng 45 độ để tạo thẩm mỹ. Việc trang trí hoa văn chữ Vạn ở bên ngoài bức tượng điện Khải Thành không chỉ tạo nên sự hài hoà, đẹp mắt, mang tính nghệ thuật mà theo Phật giáo cũng như nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, đó là hình tượng của phúc lộc, thịnh vượng và những điều tốt đẹp nhất.

Việc trang trí hoa văn chữ Vạn ở đây cho thấy một sự chắc chắn, ấm cúng và bảo vệ. Thêm nữa, bất kỳ tôn giáo nào trong cuộc giao lưu và tiếp biến văn hóa truyền thống vào nước ta đều có sự đổi khác để hòa hợp với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc bản địa. Do đó, hoa văn chữ Vạn đã xuất hiện không bị giới hạn số lượng ở toàn bộ bức tường điện cùng hai bên Trực phòng.

Hoa văn chữ Vạn còn được bắt gặp trên các vòm cửa cung Thiên Định. Bên cạnh các cột rồng được trang trí hết sức tỉ mỉ bằng nghệ thuật ghép mảnh sành sứ độc đáo, rực rỡ màu sắc. Mái vòm của cửa được trang trí hoa văn chữ Vạn bằng các mảnh ghép màu xanh dương vuông vức, theo cùng một mô típ xen kẽ với hoa văn chữ Thọ hình tròn tạo thành ý nghĩa “Vạn Thọ”.

Ở trên ba mái vòm nối các trụ rồng sau lưng tượng vua Khải Định ngồi cũng được trang trí hoa văn chữ Vạn một cách tương tự xen kẽ với hoa văn chữ Thọ. “Vạn Thọ” dịch theo nghĩa Hán chỉ cho sự trường tồn, bất diệt, nó tượng trưng cho sự khát khao một cuộc sống giàu sang, sung túc; ngoài ra cũng mang ý nghĩa về cuộc sống trường thọ, sức khỏe dồi dào hay biểu trưng cho tinh thần lạc quan, tích cực trong cuộc sống.

Mật độ hoa văn chữ Vạn càng dày hơn khi trang trí trên các bức tường hai bên án thờ sau lưng tượng vua Khải Định ngồi. Hoa văn chữ Vạn ở đây được trang trí theo hình thức được thấy trên các vòm cửa nhưng mật độ cao hơn, trong khi mật độ chữ Thọ giảm và kích thước tăng lên.

Không chỉ trên các bức tường của điện được trang trí hoa văn chữ Vạn mà ngay trong án thờ hoa văn chữ Vạn cũng xuất hiện rất nhiều.

Đặc biệt phải nói đến bức tranh “Long Ngư hý thủy” trang trí hết sức sinh động trên án thờ. Rồng có mắt to, mũi sư tử, hai sừng nhọn, có bờm, tai râu dài, có 5 móng, thân uồn khúc, miệng há rộng đang ngâm ngọc hay ngâm chữ Vạn. Đôi chỗ có cảnh đôi rồng đang châu mặt trời, rồng đang phun nước đùa vui với cá. Có lẽ, án thờ là nơi trang trí hình ảnh rồng đẹp nhất và có khá nhiều họa tiết chữ Vạn mang ý nghĩa tốt lành và là biểu tượng của nhà Phật.

Trên mặt án thờ có 4 cặp rồng trang trí ở góc án cho thấy cảm giác lông lẫy, hơi sặc sỡ, đẹp đến tận chi tiết, quả là xứng đáng với vị thể của một vị vua triều Nguyễn. Những nghệ nhân tạo ra án thờ có hình tượng rồng và chữ Vạn với hàm ý cầu mong cho vua Khải Định có cuộc sống tốt lành mãi mãi trong thế giới nhà Phật sau khi băng hà.

Hoa văn chữ Vạn tượng trưng cho chân lý nhưng tùy vào chỗ đứng nhìn mà thấy chân lý có lúc theo kiểu này có lúc theo kiểu kia. Khi chúng ta hợp lại tất cả nhận thức và kiểu dáng thì sự mô tả chân lý sẽ được hiểu theo một cách toàn vẹn đủ mọi mặt, việc trang trí hoa văn chữ Vạn ở lăng Khải Định đã thể hiện được sự hài hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ, trời đất, phù hợp với quy luật phong thuỷ và mang ý nghĩa tôn giáo sâu sắc.

Hoa văn chữ Vạn trong lăng Khải Định – Ảnh: Minh Minh

4. Đặc điểm và giá trị của trang trí hoa văn chữ Vạn tại lăng Khải Định – Huế

Với sự đa dạng về tín ngưỡng, văn hoá, nghệ thuật tạo hình hoa văn dân tộc Việt Nam cũng qua đó mà trở nên phong phú, nhiều kỹ thuật và hình thức thể hiện.

Chính sự đa dạng đó đã biến các lăng tẩm thời Nguyễn nói chung và lăng Khải Định nói riêng cùng nghệ thuật tạo hình hoa văn trên đó không chỉ là nơi thờ cúng mà còn mang tính thẩm mỹ độc đáo, đi sâu vào đời sống tâm linh của cộng đồng.

Tuy vậy, mỗi công trình kiến trúc đều thể hiện nét cá tính, cái riêng, cái độc đáo của mình làm cho nó không bị nhòa lẫn trong các công trình kiến trúc khác. Qua đó làm nổi bật nét tinh hoa văn hóa, quan điểm thẩm mỹ của từng công trình, đặc biệt là lăng tẩm Huế. Ở Lăng Khải Định cũng vậy, việc trang trí hoa văn nói chung và hoa văn chữ Vạn nói riêng cũng có một số đặc điểm đáng chú ý.

Về mô típ, các hoa văn chữ Vạn được kết nối gần như theo một kiểu, ít có sự biến điệu. Các hoa văn được kết cấu một cách linh hoạt, lồng ghép với các hoa văn khác như hoa văn chữ Thọ trên nền trang trí nhưng không làm phá vỡ bố cục chung.

Về mặt bố cục, các hoa văn được xếp thành dải và nằm chéo, cùng xoay về một hướng và kết nối với nhau, đôi khi kết nối bởi một đoạn thẳng.

Về mặt vị trí, Hoa văn chữ Vạn được trang trí ở vị trí cao nhất trên bia đá và chủ yếu trên các bức tường bao quanh điện Khải Thành, có một số hoa văn dưới chân cột rồng cũng được trang trí tương tự. Đặc biệt hoa văn chữ Vạn cũng được trang trí dày đặc trong án thờ và trang trí cùng hình ảnh rồng trong án thờ với nhiều ý nghĩa khác nhau.

Về màu sắc, hoa văn chữ Vạn phía bên ngoài điện Khải Thành và trên tường của điện chỉ được làm đơn giản có màu xi – măng. Bên trong điện hoa văn được trang trí có một màu duy nhất là màu xanh dương.

Việc trang trí hoa văn được thấy chủ yếu ở cung Thiên Định, trong đó hoa văn chữ Vạn chiếm khá nhiều, mật độ dày đặc, nằm ở các vị trí có sự ra vào như một vòng cung bảo vệ.

Việc sử dụng hoa văn chữ Vạn trang trí án thờ càng cho thấy sự linh thiêng và nhiều ý nghĩa sâu xa khác.

Trang trí hoa văn chữ Vạn tại lăng Khải Định – Huế là sản phẩm vật chất của lao động, đồng thời cũng là sản phẩm văn hóa, là biểu hiện sinh động của kỹ thuật thủ công gắn liền với khả năng thẩm mỹ.

KẾT LUẬN

Trải qua bao đời, nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc tâm linh và đình làng ở nước ta được thể hiện rất phong phú, sinh động. Hình tượng các con vật, hoa lá cỏ cây, tứ linh, bát vật được cách điệu thành các đồ án trang trí tại các lăng tẩm vừa thích hợp với bố cục trang trí của không gian kiến trúc truyền thống, có tính thẩm mỹ cao, vừa mang sự linh thiêng trong tín ngưỡng văn hóa dân gian, đậm nét bản sắc văn hóa Việt ngàn năm văn hiến.

Trang trí hoa văn chữ Vạn ở lăng Khải Định – Huế là một ví dụ cụ thể, bên cạnh các yếu tố thẩm mỹ, nó còn thể hiện một đời sống tâm hồn giàu chất mỹ cảm nguyên sơ mà phong phú, hòa quyện với đời sống tâm linh mang màu sắc Phật giáo sâu sắc. Nó đã vượt qua giá trị sử dụng thông thường để đạt đến trình độ khá cao của thẩm mỹ vì mang nhiều ý nghĩa to lớn.

Qua đó việc trang trí hoa văn chữ Vạn tại lăng Khải Định – Huế còn làm nổi bật nét tinh hoa văn hóa, quan điểm thẩm mỹ của triều Nguyễn, biến những công trình kiến trúc cùng nghệ thuật tạo hình hoa văn trên đó không chỉ là mỹ thuật đơn thuần mà còn thể hiện đời sống tâm linh của con người đương thời.

Thích nữ Thuần Trí
Học viên Cao học – ngành Lịch sử tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học 


CHÚ THÍCH:
(1) Phan Thuận An (2000), Kiến trúc cố đô Huế, Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.134
(2) Hồ Vĩnh (1998), Dấu tích văn hoá thời Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.86.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Võ Hương An, Vua Khải Định: Hình ảnh và sự kiện (1916 – 1925), Nxb Văn hoá – Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Phan Thuận An (2000), Kiến trúc cố đô Huế, Nxb Thuận Hoá, Huế.
3. Hội khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế, Đỗ Bang chủ biên (2021), Di sản đặc thù của Việt Nam – Kinh đô Huế, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
4. Trần Lâm Biền (2002), Văn hoá – Nghệ thuật chùa Việt, vài nét cơ bản, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Đắc Xuân (1998), Chín đời chúa mười ba đời vua Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế.
6. Hồ Vĩnh (1998), Dấu tích văn hoá thời Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế.
7. Thích Điền Tâm (2011), Phật học vấn đáp 100 câu hỏi về tượng Phật, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Đức Phật nhà văn hóa lớn của nhân loại
Lịch sử, Nghiên cứu, Sự kiện, Văn hóa

Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là cuộc đời hoằng hóa và hệ thống giáo lý của Ngài đã cống hiến cho nhân loại nhiều đóng góp quan trọng và ý nghĩa. Nhà Phật học H.W. Schumann đã phát biểu về Đức Phật trong tác phẩm thời danh của Ông, nhan đề Đức Phật lịch sử (The Historical Buddha) rằng: “Rất hiếm nhân vật trong lịch sử tư tưởng nhân...

Về văn bản Sự ly dung thông
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715) là một tác gia văn học Phật Giáo thời Hậu Lê. Ngữ lục cho biết sư biên soạn, biên dịch được 20 tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm này đều viết theo hai thể chữ hán và Nôm, vừa dịch giải vừa biên soạn.  Trong số sách dịch...

Đóng góp của thiền phái Liễu Quán trong việc khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất phương Nam
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Từ khi xuất hiện cho đến khi tổ Thiệt Diệu Liễu Quán viên tịch, dòng thiền Liễu Quán được thắp sáng và lan tỏa chánh pháp bởi các đệ tử và các pháp tôn. Trong các thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XIX, Thiền phái Liễu Quán ra đời, phát triển và mở...

Tục Bầu Hậu Phật qua một số văn bia ở Thanh Hóa
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

DẪN NHẬP Bầu Hậu Phật, lập Hậu Phật là hoạt động văn hóa trong sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo ở làng xã nước ta trước đây. Người gửi hậu Phật có thể là do hoàn cảnh, nhu cầu và mục đích khác nhau, nhưng tựu trung, hoạt động này phản ánh tâm linh, tư...

Phổ hệ truyền thừa thiền phái Liễu Quán tại Khánh Hoà
Lịch sử, Nghiên cứu

Thiền phái Liễu Quán, một trong năm thiền phái của dòng thiền Lâm Tế có sự ảnh hưởng lớn ở nước ta. Trong dòng chảy lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế tại Việt Nam, Liễu Quán tuy ra đời muộn nhưng là dòng thiền có phạm vi rộng khắp bởi tính bản địa....

Hành trình Phật giáo du nhập vào Trung Quốc thông qua Con đường tơ lụa
Lịch sử, Nghiên cứu

BƯỚC ĐƯỜNG TÂY CHINH VÀ LỘ TRÌNH KHAI THÔNG THƯƠNG MẠI – VĂN HÓA Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới cổ đại. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quý tộc, sau...

Thiền sư Nguyên Thiều cầu nối cho sự giao lưu Phật giáo Trung-Việt thế kỷ XVII-XVIII
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Giữa thế kỷ XVIII, Thiền sư Nguyên Thiều thuộc thiền phái Lâm Tế đời thứ 33, từ Quảng Đông chấn tích đến Đàng Trong truyền đạo. Dưới uy đức và đạo hạnh của Ngài cùng sự hộ trì của chính quyền chúa Nguyễn, Phật giáo Đàng Trong đã từng bước khởi sắc và...

Tính dân gian trong Phật giáo ở Thừa Thiên Huế
Nghiên cứu, Văn hóa

DẪN NHẬP Đối với người Việt, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, có quá trình gắn bó và phát triển lâu dài trong lịch sử dân tộc. Trong quá trình định cư của cư dân Việt trên vùng đất được mệnh danh là “Ô châu ác địa”, “lam sơn...

Nguyên Nhân Phân Phái Phật Giáo
Lịch sử, Nghiên cứu

Mọi tư tưởng, triết lý, quan điểm hay học thuyết của một đấng giáo chủ nào, sau khi trải qua những giai đoạn truyền thừa, đều có một vài sự thay đổi để thích ứng với các giai đoạn đó. Vì thế, cách chuyển tải nội dung tư tưởng hay cách lý giải về chúng đương nhiên sẽ có những sự thay đổi, phát triển, thậm chí có những...

Điển cố Phật giáo trong sáng tác của Nguyễn Du
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Trong các sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du, Phật giáo để lại dấu ấn sâu đậm. Một trong những dấu ấn đó là sự xuất hiện thường xuyên với vai trò quan trọng của lớp từ ngữ điển cố Phật giáo trong các tác phẩm của ông. Bài viết hướng đến nhận...

Nguồn càng sâu – Dòng càng dài
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Tác giả bài viết: TT. Thích Tâm Hạnh* Tóm tắt: Tổ sư Liễu Quán ở tổ trên nhánh cây, ăn rong “sột soạt” mà thiền cơ dĩnh ngộ, xuất kệ lập nên thiền phái, đời đời nối thạnh. Từ xưa đến nay, bậc Tổ đức nào miên mật công phu, chứng ngộ, bảo nhậm rồi sáng...

Anāthapiṇḍika (Tu Đà Cấp Cô Độc): Cuộc đời và sự đóng góp cho Phật giáo
Lịch sử, Nghiên cứu

Tóm tắt: Đạo Phật ra đời không ngoài mục đích ban cho chúng sanh niềm an lạc và hạnh phúc. Nhưng để tồn tại, chúng đệ tử cần biết giữ gìn và thực hiện theo lời dạy của Ngài. Trong số đệ tử của Đức Phật thời bấy giờ có một vị Ưu-bà-tắc được mệnh danh...

Giải mã Phật viện Đồng Dương nhìn từ cấu trúc của Thai tạng giới mạn-đà-la Mật tông.
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa

Phế  tích Đồng Dương (1) là tổ hợp kiến trúc đền-tháp Phật giáo quan trọng nhất của vương quốc Champa, hiện tọa lạc tại xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phế tích đồ sộ này đã được Henri Parmentier và Charles Carpeaux khai quật trong thời gian từ ngày 07-9-1902 đến...

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thiền phái Liễu Quán – Những nét tương đồng
Lịch sử, Nghiên cứu

TÓM TẮT Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là thiền phái Phật giáo yêu nước, nhập thế, kết hợp chặt chẽ giữa đời và đạo, đạo với đời. Vào thế kỷ XVII-XVIII, hệ tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm lại có điều kiện tỏa sáng trong đời sống người dân. Hệ tư tưởng này...

Tư tưởng nhập thế của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trong sự nghiệp đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước
Luận, Nghiên cứu, Văn hóa

Tóm tắt: Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỉ thứ I trước Công nguyên và đồng hành trong đời sống tinh thần của dân tộc. Tuy nhiên, đến thế kỷ 13 khi xuất hiện Thiền phái Trúc Lâm mà vua Trần Nhân Tông là vị tổ sư khai sáng thì Phật giáo...

Tinh thần nhập thế, hộ quốc an dân và công hạnh các bậc cao tăng trong lịch sử
Nghiên cứu, Văn hóa

Tinh thần nhập thế của Phật giáo đã có từ thời Mâu Tử, nhưng dưới thời Vua Trần, thì được phát triển mạnh mẽ nhất. Đặt nền móng cho tinh thần nhập thế ấy là khi tướng Trần Thủ Độ nói với Vua Trần Thánh Tông: “Tôi dám nói rằng bệ hạ vì sự tự...