Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh được kết tập từ rất sớm và trình bày tổng quát các học thuyết của những phái, những du sĩ ngoại đạo đương thời Đức Phật. Bằng tuệ tri của bậc Chánh giác, Đức Thế Tôn đã phản bác, chỉ rõ những sai lầm và nguy hại của những tà kiến ấy. Ngài đã dạy con đường trung đạo để nhân loại đi theo và đạt được cứu cánh giải thoát.

DẪN NHẬP 

Có nhiều quan điểm cho rằng, Trường Bộ Kinh đứng đầu tiên trong hệ thống Nikāya vì được kết tập sớm nhất và có những bài kinh quan trọng nhất, nhưng cũng có ý kiến rằng sở dĩ được xếp đầu, bởi tính chất các bài kinh có lượng văn tự dài nên được kết tập vào Trường Bộ Kinh. Dù là ý kiến nào đi nữa, cũng không thể phủ nhận những bài kinh trong Trường Bộ Kinh đều hàm chứa giáo lý cốt lõi cũng như những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Đức Phật và đời sống Tăng đoàn, như: Kinh Phạm Võng, Kinh Sa-môn Quả, Kinh Đại-bát-niết-bàn… [1].

Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ. Điều này như một sắp xếp đầy thâm ý của các bậc Trưởng lão thời kỳ Phật giáo bộ phái khi kết tập kinh điển, trước hết muốn giới thiệu bức tranh tổng quan về tình hình tôn giáo, quan điểm triết thuyết, tín ngưỡng đa thần, đa giáo phái trong thời Phật tại thế. Qua đó, người muốn tìm hiểu đến giáo lý Đức Phật nắm bắt được đâu là minh triết Phật giáo, đâu là tinh thần mang thiên hướng ngoại đạo, từ đó tỏ tường về các chủ nghĩa, truyền thống các giáo phái thời Phật, làm nền tảng để xây dựng niềm chánh tín với giáo lý Phật Đà.

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC PHÁI NGOẠI ĐẠO

Từ những ngày đầu học Phật, tìm hiểu về lịch sử Đức Phật và bối cảnh Phật giáo Ấn Độ, chúng ta ắt hẳn đều biết đến sáu phái ngoại đạo nổi tiếng của truyền thống tín ngưỡng Ấn Độ cổ đại [2], nhưng đó chỉ là con số đại diện cho hàng trăm tư tưởng, học thuyết và tín ngưỡng khác nhau tại xã hội Ấn Độ bấy giờ. Đến khi tìm hiểu sâu vào Kinh Phạm Võng, chúng ta mới có thể hình dung được thế nào là thế giới tâm thức đa dạng, thế nào là học thuyết như sợi tóc bị chẻ ra nhiều phần, từ những suy luận thiên kiến được cho là từ kinh nghiệm tu hành của các du sĩ ngoại đạo.

Trong tụng phẩm 2 của Kinh Phạm Võng, Đức Phật giảng giải cặn kẽ về 62 tà thuyết hay quan điểm của các phái Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo đương thời, được phân chia theo 2 thời gian, gồm: 18 quan điểm suy đoán về quá khứ và 44 quan điểm suy đoán về tương lai.

MƯỜI TÁM QUAN ĐIỂM SUY ĐOÁN VỀ QUÁ KHỨ

Có 18 loại chấp vào sự thấy về “ngã” và “thế giới” trong quá khứ mà các Sa-môn, Bà-la-môn cho là từ nhập định, hồi tưởng đời trước để biết được, gồm:

Bốn “thường trụ kiến – (Sassatavāda)” 

Các Sa-môn, Bà-la-môn nhớ về những đời trước, cách dưới một đến 40 đại kiếp, rồi thẩm sát, suy luận rằng ngã và thế giới là còn mãi.

Bốn “thường trụ vô thường kiến – (Ekaccasassatavāda)”

Từ kinh nghiệm quá khứ, các Sa-môn, Bà-la-môn nhận thấy Brahma – Đại Phạm Thiên thì trường sinh, còn chúng sanh do Brahma tạo ra có sinh tử, cuối cùng kết luận rằng thân không vững bền, chỉ có tâm thường hằng không sanh-diệt “… Cái gọi là mắt, là tai, là mũi, là lưỡi, là thân, cái bản ngã ấy vô thường… Cái gọi là tâm, là ý, là thức, cái bản ngã ấy là thường còn…” [3].

Bốn “hữu biên vô biên kiến – (Antānantavāda)”

Vì thấy “thế gian vũ trụ có chỗ cùng tột; vũ trụ có chỗ cùng tột – thế gian thì không cùng; vũ trụ trên dưới có cùng tột – ngang qua thì không; thế gian vũ trụ không có chỗ cùng tột” [4] nên có phái chủ trương rằng Ngã và thế giới là hữu biên, vô biên, vừa hữu vừa vô biên, không hữu cũng không vô biên.

Bốn “ngụy biện hay bất định kiến – (Amarāvikkhepavāda)”

Do không nắm chắc “… không như thật biết “Ðây là thiện”… không như thật biết “Ðây là bất thiện”…” [5]; do sợ phát biểu sai; sợ chấp thủ; sợ chất vấn; do ngu dốt nên nói không xác thực, không xác định. Nên chủ thuyết này luôn nói vòng quanh, trườn uốn như con lươn, không rõ ràng trong giải đáp, ngụy biện lẩn tránh: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế… Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế…” [6].

Hai “vô nhân kiến – (Adhiccasamuppannavāda)”

Do dựa vào hồi ức từ cõi vô tưởng, cho rằng “tâm tự nhiên hiện hữu” hoặc dựa vào suy đoán, nên các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương rằng Ngã và thế giới phát sinh không từ nguyên nhân nào hết. Từ 18 quan điểm thiên kiến trên, chúng ta có thể nhận định, các Sa-môn, Bà-la-môn  dựa vào sự thấy biết, nhớ lại của cá nhân về nhiều kiếp quá khứ, chấp thủ vào những hồi ức đó, cho rằng kinh nghiệm của mình là đúng, rồi áp đặt nó thành một chủ nghĩa, và chỉ tôn thờ chủ nghĩa ấy, không chấp nhận một quan điểm nào khác.

Bốn mươi bốn quan điểm suy đoán về tương lai

Có 44 loại chấp vào sự thấy về Ngã mà các Sa-môn, Bà-la-môn “…luận bàn về tương lai, chấp kiến về tương lai, y cứ về tương lai, đề xướng nhiều ý kiến sai khác…” [7], gồm:

Mười sáu “hữu tưởng kiến – (Saññīvāda)”

Gồm:

1. Có sắc;

2. Vô sắc;

3. Vừa có sắc vừa vô sắc;

4. Không có sắc cũng không vô sắc;

5. Hữu biên;

6. Vô biên;

7. Vừa hữu biên vừa vô biên;

8. Không hữu biên cũng không vô biên;

9. Đồng nhất tưởng;

10. Sai biệt tưởng;

11. Hữu hạn tưởng;

12. Vô hạn tưởng;

13. Cực lạc;

14. Thống khổ;

15. Vừa lạc vừa khổ;

16. Không lạc không khổ.

Tám “vô tưởng kiến – (Asaññīvāda)”

Chủ trương Ngã là bất biến và sau khi chết thì không còn tri giác, vô tưởng với tám quan điểm: “Ngã có sắc; Vô sắc; Vừa có sắc vừa vô sắc; Không có sắc cũng không vô sắc; Hữu biên; Vô biên; Vừa hữu biên vô biên; Không hữu biên cũng không vô biên” [8].

Tám “phi hữu tưởng phi vô tưởng kiến – (Nevasaññīnāsaññīvāda)”

Chủ trương này cho rằng Ngã sau khi chết “chẳng phải còn cũng chẳng phải không còn tồn tại tri giác”, với tám trường hợp:

1. Có sắc;

2. Vô sắc;

3. Vừa có sắc vừa vô sắc;

4. Không có sắc cũng không vô sắc;

5. Hữu biên;

6. Vô biên;

7. Vừa hữu biên vừa vô biên;

8. Không hữu biên cũngkhông vô biên.

Bảy “đoạn diệt kiến – (ucchedavāda)”

Chủ trương Ngã bị hoại diệt tất cả sau khi chết. Nguyên nhân vì sự thấy biết bảy trường hợp:

1. Các loại sanh bằng thai;

2. Chư Thiên sáu cõi trời dục;

3. Phạm thiên ở cõi sắc;

4. Trời không vô biên xứ;

5. Trời thức vô biên xứ;

6. Trời vô sở hữu xứ;

7. Trời phi tưởng phi phi tưởng xứ, sau khi chết đều không còn.

Năm “Niết bàn hiện tại kiến”

Trường phái này cho rằng, Niết bàn là thứ mà Ngã có thể đạt được trong đời hiện tại bằng những phương cách như là:

1. Hưởng thụ năm món dục;

2. Chứng được sơ thiền;

3. Nhị thiền;

4. Tam thiền;

5. Tứ thiền và cho đó đã là cứu cánh.

Bốn mươi bốn tà thuyết trên là những quan điểm mang tính phiến diện của các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào sự thấy biết, suy đoán của cá nhân khi thiền định, tu tập, chấp thủ vào những suy luận đó, cho rằng chủ thuyết của mình là đúng, chỉ tôn thờ chủ nghĩa ấy, không chấp nhận quan điểm nào khác. Từ các quan điểm đã trình bày ở trên, ta có thể phân biệt và liệt kê 62 tà kiến thành hai trường phái chính: có 7 quan điểm thuộc thuộc “chủ thuyết đoạn kiến”, chính là bảy quan điểm trong “đoạn diệt kiến – (ucchedavāda)”; và 55 tư tưởng còn lại thuộc về “chủ thuyết thường kiến” [9].

Và tóm lại cho những quan điểm thiên kiến trên, Đức Phật kết luận rằng: “Này các Tỳ kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, luận bàn… chấp kiến… y cứ về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác. Những vị ấy sẽ chấp sáu mươi hai luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa” [10]. Nói đến tà kiến, Đức Phật cũng đã từng xác quyết: “… Này các Tỳ kheo, ta không thấy có một pháp nào khác, mà do pháp ấy, chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, sẽ bị tái sanh vào cõi khốn khổ, vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục, như trường hợp người có tà kiến” [11].

NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU

Nguyên nhân phát sinh quá nhiều luận chấp như trên là do các cảm thọ mà các Sa-môn, Bà-la-môn tự cho là có kinh nghiệm khi lục căn tiếp xúc với lục trần. Theo tiến trình của lý nhân duyên, từ thọ dẫn đến tham ái, tiến tới chấp thủ. Điều này giống như  Kinh Udana diễn tả cái nhìn và chấp thủ phiến diện của các nhà ngoại đạo như người mù sờ một bộ phận của con voi rồi cho rằng: “… Con voi là như thế này, con voi không phải như thế kia! Con voi không phải như thế này, con voi như thế kia! Rồi họ dùng nắm tay để đánh nhau… Cũng vậy, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, vì vậy họ gây gổ, tranh cãi, tranh chấp và làm tổn thương nhau bằng những lời nói bén nhọn như mũi tên” [12].

Từ sự chấp thủ ấy dẫn đến hệ quả họ phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực, do không quán triệt được bản chất các pháp vốn dĩ luôn có năm tướng trạng “tập khởi – diệt vong – vị ngọt – nguy hiểm – xuất ly”, nên các quan điểm ấy bị bao trùm bởi “màn lưới cõi trời Phạm”, dù cố nhảy ra khỏi cũng không cách nào vượt thoát. Việc này như những con cá bị bao phủ trong lưới, “…tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây” [13].

TUỆ TRI CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI QUAN ĐIỂM CỦA CÁC PHÁI NGOẠI ĐẠO

Kinh Phạm Võng nêu lên 62 loại nhận thức về bản ngã và thế giới. Nghiên cứu kinh văn, ta có thể nhận thấy sau mỗi một chủ thuyết được đưa ra, Đức Phật đều khẳng định lại rằng: “…Này các Tỳ kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy sẽ đưa đến các cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”…” [14].

Vào thời Đức Phật, cũng có nhiều quan điểm ngoại đạo cho rằng con người là bất toàn, cần phải nhiếp phục bằng cách ép xác để kiếp sau được sinh về thiên giới. Từ đó, họ phát minh nên nhiều phương cách khắc kỷ và tu tập theo. Đức Phật đã chối bỏ lối tu này [15]. Và Ngài “như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỳ kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ” [16]. Đức Phật là người đầu tiên nói lên “giáo lý Duyên sinh” nên hơn ai hết, Ngài hiểu rõ nhất về quá trình sinh khởi và đoạn diệt của cảm thọ hay toàn bộ pháp hữu vi đều dựa trên nguyên lý “…cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt…” [17]. Cảm thọ hiện hữu chỉ khi nào hội đủ các điều kiện từ sự giao thoa giữa căn và trần, nếu các điều kiện không còn, thì cảm thọ cũng biến mất. Như vậy mới đúng với bản chất “vô thường, vô ngã” của chúng.

Đạo Phật không đề cao chủ nghĩa duy nghiệm – duy vật [18], cũng không đề cao chủ nghĩa duy lý, Đức Phật bác bỏ mười câu hỏi siêu hình [19] của 62 luận thuyết ngoại đạo. Triết học Phật giáo không nhìn về con người và thế giới một cách phiến diện mà có nhãn quan toàn diện hơn, như: Ngũ uẩn duyên sinh, Vô ngã, Tánh không,… Trong The Buddha and his Teachings, Đại đức Narada có viết: “Ta không thể xác định khởi điểm của dòng đời của chúng sinh. Nguồn gốc và lịch trình tiến hóa của vũ trụ, Đức Phật không đề cập đến” [20]. Hay ở một đoạn khác, tác giả viết: “Phật giáo chủ trương rằng, chúng ta là sự cấu hợp của hai thành phần Danh và Sắc, Tâm và vật chất, và hai thành phần này ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường lưu bất tức” [21].

Đối với đường lối tu tập của Đức Phật, Ngài luôn nhấn mạnh mọi người tránh xa các cực đoan, và không thiên chấp bởi điều gì, chỉ theo trung đạo để hướng tới giải thoát, không chủ trương bàn luận về thế giới hữu hình hay vô hình, hữu biên hay vô biên, cũng vượt ra ngoài các chủ nghĩa duy tâm và duy vật đơn thuần. Con đường giác ngộ của Phật giáo là con đường thánh đạo tám ngành, mà trong đó, chánh kiến dẫn đầu. Như Phẩm Rohitassa thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy: “Này hiền giả, Ta tuyên bố rằng: “Tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ (đời này), không có sanh khởi (đời khác), không có thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới”. Nhưng này hiền giả, trong cái thân dài độ mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta tuyên bố về thế giới, về thế giới tập khởi, về thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt”. Hay nói rõ hơn là nương theo tinh thần trung đạo mà tu tập mới có thể thăng hoa trên lộ trình trí giác.

“NHƯ LÝ TÁC Ý” – MỘT PHƯƠNG PHÁP TRUNG ĐẠO

Trong giáo lý Phật giáo, thân – khẩu – ý giữ vai trò quan trọng hướng đến nghiệp lành hay dữ dẫn dắt con người. Nghiệp (Kamma) nghĩa là “sự tạo tác, tức là chỉ cho hoạt động của thân tâm như hành vi, hành động, hoặc chỉ cho những hoạt động của thân tâm do ý chí sinh ra” [22]. Như trong Kinh Một Pháp Môn Quyết Trạch (Nibbedhikasutta), Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư [sự cố ý] là nghiệp: sau khi suy tư [cố ý], tạo các nghiệp về thân, về lời, về ý” [23]. Sáu mươi hai quan điểm của các ngoại đạo là những tư tưởng được hình thành dựa trên ý nghiệp – quan trọng nhất trong ba loại nghiệp, do tác ý thiên lệch, nên tác thành những tà thuyết dẫn đến tà kiến nhấn chìm họ vào trong vũng lầy của sự chấp thủ không vượt thoát ra được.

Thế nên, Đức Thế Tôn luôn nhắc nhở hàng đệ tử trước khi làm bất kỳ việc gì đều phải dựa trên sự “như lý tác ý” tức là tác ý như thật, dựa trên chánh kiến, chánh tư duy và tinh thần Trung đạo thì sự tu tập tâm và tuệ mới được thành tựu. Như trong Kinh Tất Cả Lậu Hoặc, Ngài dạy: “Này các Tỳ kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỳ kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt” [24].

ỨNG DỤNG TU TẬP

Qua phân tích về quan điểm từ nhiều phương diện như trên, chúng ta càng nhận thức rõ hơn nguyên nhân dẫn đến những tư tưởng thiên lệch của các nhà du sĩ ngoại đạo và càng sáng tỏ hơn nữa yếu chỉ tu tập theo Phật giáo. Ý niệm là thứ có thể dẫn dắt con người đến bất kỳ cảnh giới nào. Một người xuất gia muốn tu tập đạt đến kết quả viên mãn thì trước hết không thể thiếu Chánh kiến, như lý tác ý và không được xa rời tinh thần Trung đạo, tuệ tri các cảm thọ theo năm tướng trạng như trong Kinh Phạm Võng dạy: “Tập khởi-diệt vong-vị ngọt-nguy hiểm-xuất ly”, không tham đắm và chấp thủ bởi bất kỳ điều gì, cũng không theo bất kỳ một chủ trương nào ra ngoài tinh thần chánh pháp. Trong Kinh Kālāma, Đức Phật dạy: “… Chớ có tin vì nghe báo cáo, vì nghe truyền thuyết, truyền thống…; vì phù hợp với định kiến… vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình.”; chỉ khi nào “… Các pháp nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau…hãy từ bỏ chúng và…  Các pháp nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc… Hãy tự đạt đến và an trú!…” [25].

KẾT LUẬN

Các quan điểm, học thuyết các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo xưa nay vẫn luôn mâu thuẫn với nhau, không mang lại hạnh phúc, an lạc, giải thoát chân thật. Trong tác phẩm An Introduction to Pàli Literature, Dr.S.C. Banerji đã nhận định về Kinh Phạm Võng như sau: “… Trong bài kinh này, Đức Phật đề cập đến những vấn đề triết học quan trọng có quan hệ lãnh vực thế giới, sự hiện hữu của một linh hồn bất tử, về Thượng Đế… Kinh Phạm Võng đã làm nổ tung thế giới của các Bà-la-môn” [26] .

Đối với sự nhìn nhận cũng như thái độ của Phật giáo, với những học thuyết của ngoại đạo, Đức Phật không bao giờ tranh cãi, lý luận với họ: “Này các Tỳ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ kheo, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời” [27]. Ngài chỉ nêu rõ các quan điểm ấy chưa phù hợp với tinh thần tu tập và quán chiếu của Sa-môn đệ tử Phật. Từ đó, chỉ dạy những phương pháp giúp chúng ta vượt thoát kiến chấp, bảo thủ trong quan điểm cá nhân và nương theo chánh pháp để đạt đến tuệ giác. Kinh Phạm Võng là một bài kinh với nội dung chính nhằm nêu bật lên sự tuệ tri của Đức Phật như tấm lưới lớn, thâu tóm hết tất cả các học thuyết, quan điểm của các phái ngoại đạo đương thời, cho chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về các học thuyết, cũng như vững tin hơn trong việc lựa chọn một hướng đi đúng đắn, từ đó bước những bước vững chãi trên con đường chánh đạo.

 

Chú thích:

[1] HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN), TP. Hồ Chí Minh.
[2] Ấn Thuận, Thích Quảng Đại (dịch), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, tr.29; Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí (dịch),  Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, tr.29.
[3] HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.43.
[4] Bhik. Samādhipuñño Định Phúc, Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, tr.149.
[5 HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.50.
[6] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.50.
[7] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.39.
[8] Bhik. Samādhipuñño Định Phúc, Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, tr.150.
[9] Hương Vân dịch, Chuỗi ngọc trai, tr.85.
[10] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.76.
[11] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ 1, tr.68.
[12] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tiểu Bộ I, tr.181.
[13] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.89.
[14] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.34.
[15] Jujiro Takakusu, Tuệ Sĩ (dịch), Tinh hoa triết học Phật giáo, tr.31.
[16] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.34.
[17] HT. Thích Minh Châu (dịch, 1992), Kinh Tiểu Bộ, Kinh Phật tự thuyết (tập I), VNCPHVN, tr.291.
[18] HT. Thích Minh Châu (1992), Trung bộ kinh I, số 3, Kinh Thừa tự pháp, VNCPHVN.
[19] HT. Thích Minh Châu (1992), Tương ưng bộ IV, Phẩm không thuyết, VNCPHVN.
[20] Venerable Nārada Mahāthera (Phạm Kim Khánh dịch, 2010), The Buddha and His Teachings, Buddhist Publication Society, Sri Lanka, tr.367.
[21] Sđd, tr.427.
[22] Thích Quảng Độ dịch, Phật Quang từ điển, tập 3, tr.3273a.
[23] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tăng Chi Bộ, tr.218.
[24] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ 1, tr.25.
[25] Thích Minh Châu (dịch), Tăng Chi Bộ, tr.214-216.
[26] Dr.S.C. Banerji, An Introduction to Pàli Literature, Tỳ kheo Giác Nguyên dịch, Giới thiệu văn học kinh điển Pàli, tr.22.
[27] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng 3, tr.249.
Tài liệu tham khảo:
1. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN), TP. Hồ Chí Minh. 
2. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1992), Trung bộ kinh I, VNCPHVN, TP HCM.
3. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1996), Kinh Tăng Chi Bộ 1, VNCPHVN, TP HCM.
4. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Tương Ưng III, VNCPHVN, TP HCM.
5. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1992), Tương ưng bộ IV, VNCPHVN, TP HCM.
6. HT Thích Minh Châu (2015), Kinh Tiểu Bộ I, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
7. Ấn Thuận, Thích Quảng Đại (dịch, 2018), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Hồng Đức. 
8. Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí (dịch, 2008),  Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông.
9. Jujiro Takakusu, Tuệ Sĩ (dịch, 2019), Tinh hoa triết học Phật giáo, Nxb. Hồng Đức.
10. Venerable Nārada Mahāthera (Phạm Kim Khánh dịch, 2010), The Buddha and His Teachings, Buddhist Publication Society, Sri Lanka.
11. Venerable K. Sri Dhammananda (1996), Buddhism the Eyes of Intellectuals.
12. Dr.S.C. Banerji, An Introduction to Pàli Literature, Tỳ kheo Giác Nguyên dịch, Giới thiệu văn học kinh điển Pàli, Nxb. Phương Đông.
13. Bhik. Samādhipuñño Định Phúc (2017), Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, Nxb. Hồng Đức.
14. Hương Vân (dịch, 2011), Chuỗi ngọc trai, Nxb. Phương Đông, TP Hồ Chí Minh. 
15. Thích Quảng Độ (dịch, 2000), Phật Quang từ điển (tập 3), Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc.
16. V.I. Lênin (1980), Toàn tập 18, Nxb. Tiến bộ, Moscow (Nga).

SC. Thích Nữ Thánh Thảo

Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Nhập Trung Quán Luận
Luận, Phật học

NHẬP TRUNG QUÁN LUẬN Nguyệt Xứng (Candrakīrti, 560-640) TÀI LIỆU GIÁO KHOA TU HỌC Huynh Trưởng bậc Lực Gia Đình Phật Tử Việt Nam THÍCH NHUẬN CHÂU biên dịch LỜI DẪN Nhập Trung quán, là đi vào tinh thần Trung đạo, siêu việt các cực đoan có, không, như trong bài kệ Bát bất của...

Luận Thích Du Già Sư Địa
Luận, Phật học

Luận Thích Du Già Sư Địa Tối Thắng Tử Đẳng tạo, Đường Huyền Tráng dịch Bản Việt dịch của Thích Tâm Châu Kính lễ Thiên Nhân Ðại-Giác-Tôn,[4] Phúc-đức, trí-tuệ đều viên mãn. Vô thượng, văn-nghĩa pháp chân-diệu, Thụ học, chính tri Thánh Hiền chúng. Ðỉnh lễ Vô Thắng Ðại Từ-thị, Mong các hữu tình chung lợi...

Luận ngũ uẩn
Luận, Phật học

Luận ngũ uẩn Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) – Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng – Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh Đức Thế Tôn nói về Ngũ uẩn: Sắc uẩn; Thọ uẩn; Tưởng uẩn; Hành uẩn; Thức uẩn. Sắc uẩn là gì? Là bốn đại chủng 1 và những...

Đức Phổ Hiền Bồ-tát với pháp môn Tịnh độ
Phật học

Khi nhắc đến Tịnh Độ, chúng ta đều nghĩ tới hình ảnh Tây phương Tam Thánh, đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, và Bồ-tát Đại Thế Chí. Ba vị thánh này ở cõi nước Cực Lạc phương Tây, trong đó đức Phật A-di-đà là vị giáo chủ, còn đức Quán Âm và Thế Chí...

Nghi Thức Truyền Giới Cho Thập Thiện Và Bồ Tát Tại Gia
Luật, Phật học

TỰA Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trì và hoằng dương chánh pháp, song song với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Sở dĩ được như thế, là do tinh thần cùng học cùng tu hòa hợp như nước với sữa. Tinh thần ấy càng được củng cố và phát triển thì giáo...

Một số vấn đề trong A tỳ đàm
Luận, Phật học

Không hài lòng với việc phân loại thực tại (các pháp) thành các uẩn, xứ và giới, các bộ phái ngày càng thấy nhu cầu thảo ra một danh sách tổng thể các pháp, và việc này đã đưa đến một liệt kê khá cụ thể cho các mục tiêu thiền quán về những thành...

Tìm hiểu tổng lược về Bộ kinh Milindapañha
Kinh, Phật học

Bộ kinh phản ánh đầy đủ giáo lý căn bản trong Kinh tạng Pāli của Phật giáo Theraveda, “những vấn đề được đề cập hoàn toàn là tinh yếu của Tam Tạng Pàli văn, ít bị pha tạp tư tưởng và kiến giải của các bộ phái phát triển sau này” I. Tổng lược Kinh Milindapañha...

Giới thiệu kinh ‘Chuyện vua Thập Xa’
Kinh, Phật học

Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu đến quí Phật tử từng mẩu chuyện trong kinh Tạp bảo tạng (雜寶藏經 ‘Saṃyukta-ratna-piṭaka-sūtra’), 10 quyển, do ngài Cát-ca-dạ (Kiṅkara, dịch là Hà sự, người Tây Vực) và Đàm Diệu (Tăng nhân thời Bắc Ngụy, năm sinh, mất và quê quán không rõ) dịch thời Nguyên Ngụy (A.D...

Luật tạng trong tổ chức Tăng đoàn ngày nay tại Việt Nam
Luật, Phật học

Tăng đoàn (Sangha) là những người nguyện sống với đời sống hoà hợp, để hổ trợ cho nhau thực hiện đời sống Giải thoát và Giác ngộ. I.  Luật tạng trong tổ chức tăng đoàn. Định nghĩa về tăng, Thiền sư Nhất Hạnh viết: “Tăng là đoàn thể đẹp Cùng đi trên đường vui Tu...

Kinh Chuyển Pháp Luân – Tỳ Kheo Hộ Pháp
Kinh, Phật học

Ba Ngày Lịch Sử Trọng Đại Trong Phật-Giáo  Theo truyền thồng Phật-Giáo-Nguyên-Thuỷ có 3 ngày lịch sử trọng đại như sau: 1– Ngày rằm tháng tư (âm-lịch) có 3 sự kiện lịch sử trọng đại trùng hợp theo thời gian khác nhau: * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đản-sinh kiếp chót, * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama,...

Những điều cần biết về ăn trộm Tăng tướng và lối tu Đầu đà khổ hạnh theo giới luật của Đức Phật
Luật, Phật học

Lối tu Đầu đà khổ hạnh và giới luật của Đức Phật là những khía cạnh quan trọng trong Phật giáo. PHẦN I: LUẬT PHẬT DO AI QUY ĐỊNH? 1) Hỏi: Luật Phật là gì? Ai là người chế định ra Luật Phật? Đáp: Luật Phật là khái niệm cho tất cả quy định về giới...

Sơ Quát về ba pháp môn Chỉ-Quán-Thiền trong kinh Thủ Lăng Nghiêm qua Duy Thức Học
Kinh, Phật học

Pháp Tứ Niệm Xứ Quán giúp tâm niệm được an trú mà liễu tường được các nhân duyên sinh khởi, rõ được 4 chỗ Thân- Thọ- Tâm- Pháp đều không có thực thể, không có tự tánh. Quán liễu được như vậy khiến giúp chủ thể Năng Quán không còn khởi sinh. Điều này có...

Học và ứng dụng giới luật Phật giáo trong đời sống tu tập
Luật, Phật học

Phật giáo do Đức Phật sáng lập là một tổ chức gồm có ba thành phần tạo nên là Phật, Pháp và Tăng, còn gọi là Tam bảo. Trong đó, Đức Phật là bậc Thầy vĩ đại và là tấm gương cao thượng để các đệ tử học tập theo, giáo pháp là con đường...

Tư tưởng “không sát sinh” trong Tứ bộ A hàm kinh
Kinh, Phật học

Sự sống vô cùng quý giá, bất kể là ai, tôn giáo nào, xã hội nào và quốc gia nào. Mọi người mọi loại dù là hữu tình hay vô tình luôn luôn tôn trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, từ sự sống của côn trùng cho đến sự sống của cỏ cây....

Luận “Sa môn bất kính vương giả”
Luận, Phật học

Khi một tu sĩ không giữ mình, không có giới hạnh, lại dùng tà thuyết chiêu dụ mê hoặc, thì không còn tư cách làm thầy làm sư, thậm chí còn thấp hơn người thế tục; khi đó họ nhận nhân quả – bị phỉ báng cũng là tất yếu. “Sa môn bất kính vương...

Tư tưởng Long Thọ trùng phùng trên nẻo đường quê hương
Phật học

(TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ THÍCH TUỆ SỸ) Thầy sinh ra và lớn lên tại thành phố Paksé, tỉnh Champasak, Lào; năm chín tuổi được phụ mẫu gửi vào ngôi chùa làng gần nhà (chùa Trang Nghiêm) hành điệu. Thiên bẩm thông minh, học đâu nhớ đó, điều này khiến cho thân mẫu lo sợ, liên...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.