Trên đường từ thành Tỳ-xá-ly về Câu-thi-na, sau khi thọ buổi cơm cúng dường cuối cùng của người thợ rèn Chunda (Thuần-đà), Thế Tôn đã nhiễm bệnh lỵ huyết rất nặng, song Ngài vẫn nhẫn nại chịu đựng cơn đau đi cùng tôn giả A-nan và một số tăng chúng, thỉnh thoảng Ngài dừng chân nghỉ.
Trên đường, Thế Tôn nhận hai chiếc y kim sắc sáng rỡ do Pukkusa dâng cúng. Tôn giả A-nan đắp y ấy lên người Thế Tôn. Kỳ lạ thay! Màu sắc vàng chói của y bị lu mờ.
Tôn giả trình lên. Phật đáp: Có hai trường hợp màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói, đó là trong đêm Như Lai chứng ngộ Đạo Chánh Giác và trong đêm Như Lai sắp nhập Niết-bàn.
Thế rồi Ngài tuyên bố: “Đêm nay, vào lúc canh ba Ta sẽ diệt độ tại rừng cây Sala, làng Kusinaga (Câu-thi-na hiện nay là làng Kasia thuộc quận Gorakhpur). Hãy lên đường đi cho kịp lúc và này A-nan! Đây là lần cuối cùng Như Lai nhìn Vesàli”.
Đi ngang sông Kukuttha, Thế Tôn dừng nghỉ dùng nước tại vườn xoài và xuống sông tắm. Rồi Ngài tiếp tục đi đến rừng Sala, nơi công viên Upavattana của bộ tộc Malla.
Kinh sách ghi: “Bấy giờ, công viên này nằm bên kia sông Hiranyavati, rất đẹp”. Hiện nay, chúng ta không còn thấy được dòng sông xanh biếc như thuở xưa, mà chỉ còn những kênh rạch khô cằn, nằm xen kẽ trong những đám ruộng lúa mì. Năm tháng xoay vần, định luật vô thường theo đó làm cảnh cũ đổi thay, có còn chăng là vùng trời ký ức và nỗi buồn man mác xoáy vào lòng người hành hương nơi đất Phật.
Khi Phật và các vị Tỳ-kheo đến rừng cây Sala thì trời đã xế chiều. Phật bảo nhỏ: A-nan! Như Lai mệt lắm rồi, Thầy hãy sắp chỗ nằm cho Như Lai giữa hai cây Sala.
Tôn giả A-nan tìm một khoảng đất bằng phẳng, sạch giữa hai cây Sala rồi lấy nhiều y Ca sa trải xuống đất, thỉnh Thế Tôn ngơi nghỉ.
Nhìn Thế Tôn gầy ốm, hơi thở yếu ớt, báo hiệu cuộc tương phùng sắp tan, tôn giả A-nan quì xuống bên cạnh, nước mắt rớt, rớt hoài, cuối cùng không còn dằn được nữa, bật khóc thành tiếng.
Thế Tôn nhẹ mở mắt, lặng lẽ nhìn người thị giả thân thiết, giây lát tiếng Ngài yếu ớt khuyên:
Đừng khóc A-nan! Đây là điều mà ai cũng phải trải qua…
Im lặng… Đêm giữa rừng, không tiếng động. Ánh sáng những vì sao lặng lẽ chiếu soi. Một tiếng nấc, rồi tiếp theo… nỗi bi hoài đang ngự trị trong tâm hồn của các bậc phạm hạnh. Tôn giả A-nan không thể chịu đựng nổi, Ngài tránh ra ngoài.
Lúc ấy, cây Sala trổ hoa trái mùa, đơm tròn trên cây và rải trên thân Như Lai. Những đóa hoa trời Mạn-đà-la và bột hương Chiên-đàn từ trên hư không rơi xuống tung rải trên thân Như Lai để cúng dường.
Thế Tôn nói: “Đây không phải là cách cúng dường cao thượng. Nếu muốn cúng dường, đảnh lễ Như Lai với sự tôn sùng tối thượng, thì hãy sống chơn chánh, thực hành thành tựu về chánh pháp.”
Bấy giờ, có vị Tỳ-kheo đứng hầu quạt bên cạnh Thế Tôn, Ngài dạy tránh sang một bên để chư thiên khắp các cõi đang tụ hội chiêm ngưỡng Như Lai lần cuối.
Có chư thiên than khóc, lăn lộn kêu thương: “Thế Tôn diệt độ quá sớm”. Các chư thiên bình thản, tỉnh giác suy tư: “Các hành là vô thường”.
Thế Tôn dạy: Này các Thầy! Hãy tổ chức lễ trà tỳ của Như Lai như lễ tang của vị Chuyển Luân Vương.
Có bốn Thánh tích cần chiêm ngưỡng, tôn kính: Nơi Đản sanh. Chứng ngộ Vô thượng Giác. Chuyển Pháp luân và nơi Như Lai nhập Niết-bàn.
Những ai chiêm bái các Thánh tích này, đến khi từ trần vẫn còn mang tâm hoan hỷ, thì những người ấy sẽ sanh về cõi lành, cảnh giới chư thiên.
Có bốn hạng người đáng xây tháp cúng dường: Bậc Đẳng Chánh Giác, Phật Độc Giác, các vị Thanh văn, vua Chuyển Luân Vương. Vì các Ngài là những vị sống đúng chánh pháp.
Ngài an ủi:
“Thôi đừng khóc nữa A-nan! Từ lâu Thầy dốc thân tâm đối với Như Lai đầy từ ái, có một không hai. Thầy là người thị giả ưu việt hơn cả các vị thị giả chư Phật ở quá khứ và vị lai. A-nan! Thầy đã thành tựu công đức, hãy tinh tấn, không bao lâu nữa thầy sẽ chứng ngộ giải thoát.
Này A-nan! Thầy hãy báo cho dân chúng vùng Malla này biết, đêm nay Đấng Chánh Giác sẽ diệt độ”.
Đêm đã khuya lắm rồi. Cảnh vật hoàn toàn tĩnh mịch. Trong rừng Sala, khi bậc Đạo sư sắp Niết-bàn, vẫn còn tha thiết khuyên bảo đệ tử lần cuối, được ghi lại thành Kinh Di Giáo:
“Vạn pháp đều vô thường có sinh thì có diệt, các thầy hãy tinh tiến lên để đạt đến giải thoát”.
Đó là lời sau cùng của đấng Thế Tôn. Ngài đi dần vào trạng thái bất động của thiền định. Và Đức Thế Tôn! Đấng cha lành đã ra đi, bậc Đạo sư tám mươi tuổi đã nhập Vô dư Niết-bàn.
Lúc bấy giờ là nửa đêm trăng tròn tháng Vesakha năm 544 trước Tây lịch, nhằm ngày rằm tháng 02 (âm lịch ) năm Đinh Tỵ.
Ôi ! Thật tiếc thay:
Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
Áo não thử thân đa nghịêp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Khi Phật tại thế con trầm luân
Nay được thân người Phật diệt độ
Buồn thay thân này nhiều nghiệp chướng
Chẳng thấy kim thân đấng Thế Tôn!)
Dân chúng trong thành dâng cúng vải, hương hoa cúng dường kim thân suốt bảy ngày. Lúc di quan, không ai di chuyển kim quan Đức Điều ngự được.
Sau khi thưa hỏi nguyên do với tôn giả A-nan, người dân Malla đồng ý theo ý muốn của chư thiên là nâng kim thân Như Lai ra cửa thành phía bắc, đi qua trung tâm thành và hướng về cửa phía đông rồi dừng lại trước sân đền Makuta Bandhana, (hiện nay xây dựng nơi đây một ngôi tháp hình cầu tên là Rambhar Stupa, kỷ niệm nơi trà tỳ nhục thân Đức Phật) hỏa thiêu kim thân Như Lai tại đấy.
Bởi sức tàn phá của thời gian, giờ đây ngôi tháp này chỉ còn là một mô gạch khổng lồ, nhưng đó là một chứng tích lịch sử quan trọng. Nhìn xung quanh ngôi tháp còn có nhiều nền móng phủ rêu, có lẽ đây là những nền am thất hay là những nền tháp cũ ngày xưa.
Nhìn về phương diện thẩm mỹ, nơi này không có giá trị nghệ thuật, song đối với bất kỳ khách hành hương chiêm bái thánh tích nào quen thuộc với lịch sử cuộc đời Đức Phật, thì đây quả là một thánh tích đầy kỷ niệm thiêng liêng, gây bao cảm xúc bồi hồi.
Khi các tộc trưởng châm lửa thiêu giàn hỏa nhưng lửa không cháy. Cuối cùng phải đợi đến khi Tôn giả Ca-diếp và năm trăm vị Tỳ-kheo đến đảnh lễ, nhiễu quanh giàn hỏa. Phật duỗi hai chân ra như an ủi, Tôn giả trìu mến vuốt hai bàn chân Phật, sau đó hai chân từ từ rút vào trong kim quan thì khi đó lửa mới bắt đầu phụt cháy.
Sau khi trà tỳ xong, các vị tộc trưởng xứ Malla thâu lượm Xá-lợi và an trí trong một chậu vàng tôn trí tại bàn thờ trung ương.
Xá-lợi có nhiều màu lóng lánh như xa cừ, gồm: Bảy Xá-lợi xương trán lớn, xương vai, răng nhỏ và nhiều xương nhỏ bằng hạt đậu xanh, hạt gạo hoặc hạt cải…
Hình bóng Như Lai kể từ lúc ấy khuất dạng. Hơn bốn mươi lăm năm hoằng pháp lợi sinh trong hy sinh cao cả, dù có đem bao nhiêu ngôn từ để diễn tả cuộc đời của Bậc Giác Ngộ cũng không thể nào diễn đạt hết được.
Nam Mo Sala Song Thọ Thị Hiện Niết Bàn Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích Tánh Tuệ