Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau, nội kết và thù hận, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nỗi đau khổ của con người cần phải được xoa dịu bằng tình thương, chỉ có chất liệu yêu thương mới xóa hết hận thù.

Thiếu tình thương cuộc đời sẽ trở thành bãi sa mạc hoang vu. Tình thương sẽ mở cửa tâm hồn, tưới tẩm làm cho hạt giống thiện lành hé nở. Vì thế, hành giả trên bước đường hành Bồ tát Đạo phải thực tập hạnh lắng nghe và thấu hiểu, phải hội đủ bốn âm thanh và quán sâu năm pháp quán theo kinh Phổ Môn. Bốn âm thanh đó là: Diệu âm, Quán thế âm, Phạm âm, Hải triều âm. Và năm quán:

Chơn quán, Thanh tịnh quán
Quãng đại trí tuệ quán
Bi quán và Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

“Từ” là luôn luôn đem niềm vui đến cho người khác, “bi” là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. “Từ” là lòng yêu thương, “bi” là ra tay cứu giúp và dấn thân, nỗ lực làm việc để cứu giúp. Từ bi là cho vui và cứu khổ một cách vô tư, bình đẳng, không bị thời gian chi phối, không bị không gian ngăn cách, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, thương người như thương mình, cứu người như cứu mình. Bản chất của từ bi không ẩn lòng ích kỷ, không phải lòng thương hữu hạn của phàm tình, do ân nghĩa, ái kiến phát sinh. Từ bi là hai ý nghĩa khác nhau: “Từ” luôn luôn giữ điều vui, “Bi” luôn luôn làm tan sự khổ. Vì vậy, “Tu “từ quán” dịu dàng bao nhiêu thì phương pháp “Bi quán” mạnh mẽ bấy nhiêu. Từ dịu dàng như những vần mây, bi mạnh bạo như sấm rền, sấm linh động mây mới tan, mới có mưa, mới đượm nhuần cỏ cây, mới tưới mát được cõi trần gian. Cũng vậy, người tu niệm cũng như mây, như sấm. Thực hành phương pháp Bi thiếu Từ không được, thực hành Từ thiếu Bi cũng không được” [1].

Phép quán từ bi thường thực tập theo hai cách: mở rộng tình thương tuần tự đi từ những người thân trong gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, rồi đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù và tập thế nào cho đến khi mình thấy kẻ thù cũng giống như người thân nhất của mình mới thôi. Hoặc trở ngược lại đi từ kẻ thù dần đến người thân nhất cho đến quán thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân mới thôi. Tình thương ấy cũng không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân loại mà còn lan đến muôn vật cỏ cây, nghĩa là toàn bộ những gì có sự sống.

Mặc dù người và muôn vật hình thức có khác nhau nhưng sự sống chỉ là một. Sự sống đã là một thì tình thương sao lại phải phân chia. Làm đau khổ một khía cạnh nào của sự sống, cũng là làm đau khổ sự sống chính mình. Vì sự sống của mình và chúng sanh là một. Như vậy, từ bi của Đạo Phật là một tình thương rộng rãi mênh mông, trang trải từ chúng sanh đến muôn vật; có tác dụng quý báu, thiết thực lợi ích cho cuộc đời, có ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó giúp con người trở nên hiền lành, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, biết tôn trọng sự sống với tất cả và không vì lý do gì lại tàn sát đồng loại hay gây chiến tranh.

Khát vọng khẩn thiết của xã hội hôm nay là an lạc, là xóa bỏ khổ đau nên những trái tim của Bồ tát Quán Thế Âm hôm nay cần phải thị hiện. Đây chính là lúc vận dụng mọi hình thái phát triển tình thương. Một khi tình thương đã trở thành sông biển, một khi ý chí thể hiện tình thương đã trở thành gió bão thì mọi thành trì bạo lực sẽ dần dần sụp đổ. Cuộc đời của các vị Bồ tát đã khắc phục khổ đau bằng cách anh dũng đối đầu với nó. Đối với người đang đi trên đường tiến đến quả vị toàn giác, sự đau khổ không còn là sự lo buồn cá nhân và sự trăn trở về hạnh phúc của riêng mình, sự đau khổ của tất cả chúng sanh chính là sự đau khổ của mình. Chính trong tinh thần này mà tất cả những ai muốn đi theo con đường thánh thiện của Đức Phật đều phát lời thệ nguyện Bồ tát.

Trí tuệ quán là con đường giải thoát, là công phu thực tập lời dạy tỉnh thức của các bậc giác ngộ để tìm lại tiềm năng trí tuệ chân thật vốn ngủ say trong tâm. Trí tuệ thật chứng của chư Phật, chư Bồ tát là những soi sáng, là những đối tượng gợi cho sự tỉnh thức và quay về tìm lại giá trị chân tâm đích thực sẵn có của mỗi người. Trong quá trình quay về, chúng ta cần có hai khả năng kết hợp: khả năng tự lực và khả năng tha lực.


Khả năng tự lực là tin mình có đầy đủ trí tuệ và phải nỗ lực thiền định để phát huy trí tuệ ấy. Khả năng tha lực là thể tánh thanh tịnh của muôn pháp, Đức Bồ tát Quán Thế Âm sau khi thành tựu được trí tuệ, hội nhập với thể tánh thanh tịnh của muôn pháp và lòng từ bi cứu khổ chúng sanh của Ngài phát xuất từ thể tánh thanh tịnh ấy! Chính thể tánh thanh tịnh này là khả năng tha lực. Tin lòng từ bi vô biên và tin sự cứu độ bình đẳng của Đức Bồ tát Quán Thế Âm ta tin hai khả năng kết hợp giữa ta và Ngài, giữa sự tiếp xúc bên trong và bên ngoài. Tin tha lực, tin sự cơ cảm, của Bồ tát Quán Thế Âm cũng có nghĩa là ta phải nỗ lực quán chiếu, kiểm soát nội tâm để vun bồi và làm nảy nở hạt giống từ bi cho mỗi ngày thêm lớn.Vì vậy, khi chúng ta tin kính đảnh lễ cầu sự cứu rỗi của Bồ tát Quán Thế Âm là tin trong ta và ngoài ta có một khả năng trí tuệ tuyệt đối, có đủ năng lực mầu nhiệm làm tung vỡ cái ý thuyết sai lạc của ý thức phân biệt. Khi cái thấy sai lạc của ý thức phân biệt không còn nữa thì khổ đau không có nơi chốn để phụ thuộc vào. Thực chứng trí tuệ là đoạn trừ mê lầm và diệt trừ tất cả khổ não từ vô lượng kiếp! Vì vậy trong cuộc tranh chấp với bóng tối, chỉ có ánh sáng mới đóng vai trò quyết định. Muốn giải thoát con người khỏi bóng tối ngu si, nếu không có trí tuệ thì không một quyền năng nào có thể tiêu trừ nổi, giống như bấc và dầu giúp cây đèn phát sanh ánh sáng. Cũng vậy, muốn thắp cây đèn trí tuệ trong mỗi người, hẳn phải nhờ một số trợ duyên thích nghi, mà chính là phương pháp tu tập. Nhờ phương pháp tu tập đúng đắn sẽ thắp được cây đèn trí tuệ. Cây đèn trí tuệ khi đã thắp lên, tức những bóng tối vô minh không còn hiện hữu. Vì vậy, hành giả tu tập phải luôn trở về với Phật tâm của chính mình, đi vào thiền quán để thắp ngọn đèn trí tuệ trong tâm sáng mãi không bị lu mờ.Như đã nói, pháp quán trí tuệ này là pháp quán của hàng Bồ tát, vì có trí tuệ rốt ráo, lòng từ bi mới chan hoà rộng lớn. Tức là có sự hiểu biết đúng đắn, sâu sắc mới có lòng thương yêu bình đẳng và hành đạo lợi tha không mỏi mệt. Bằng trí tuệ và tâm từ bi đức, Bồ tát Quán Thế Âm thệ nguyện đi vào thế gian, vào mọi cảnh giới để cứu khổ chúng sanh không bao giờ cùng tận.

Nếu như kẻ phàm phu mãi sống trong tâm thức tối tăm, lấy dục lạc làm niềm vui, lấy tham ái làm linh hồn, ngược lại, các vị Bồ tát luôn soi sáng đời sống mình bằng trí tuệ vô ngã, bởi vì trí tuệ được xem là sự nghiệp, là linh hồn một vị Bồ tát. Bởi trí tuệ thâm sâu, Bồ tát diệt trừ bản ngã hẹp hòi của mình, hòa vào thực tại rộng lớn, từ đó thấy được mối liên hệ giữa mình và người, giữa một và tất cả. Cũng như trí tuệ ấy, Bồ tát hiểu rằng vạn pháp là huyễn hoá, khổ đau cũng như muôn pháp khác đều không thực, trí tuệ luôn luôn gắn liền với đời sống của các vị Bồ tát, trong mọi lúc mọi nơi. Trí tuệ được xem là sự nghiệp là ánh minh quang luôn soi sáng mọi hành vi ý niệm. Khi đã an trú vào trí tuệ vô ngã, hàng Bồ tát thường quán chiếu về sự ảo hoá của vạn pháp theo nguyên lý tánh không và lúc đó mọi sự bám víu vào huyễn tướng của các pháp, mọi ý niệm cho rằng chúng ta thực có sẽ bị tan biến như mây khói. Ngay cả ý niệm về tánh cũng không hề nắm giữ.

Đức Bồ tát Quán Thế Âm trọn ngày ở trong trần lao độ sanh mà thật không có tướng trần lao. Tâm lợi sanh chẳng phải có mà có, có mà chẳng có. Như trăng dưới nước, hoa đốm giữa hư không, không chấp đắm không an trú vào đâu cả, tuy dấn thân vào đời ngũ trược mà vẫn thanh tịnh không nhơ bẩn. Như hoa sen vượt lên trên bùn. Giống như “Dạo vườn hoa trăm thứ, thân chẳng động một cành” [2].

Trong tất cả các đại nguyện, đại nguyện thanh tịnh là khó nhất, thế nhưng hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, khi tu là “Quán thanh tịnh không nhơ” khi chứng đắc thì hoà nhập vào cõi thế gian đầy uế trược để độ chúng sanh. Bồ tát Quán Thế Âm hoá hiện thân không phân biệt, khi chúng sanh cần hiện thân rắn để hoá độ, Ngài vẫn hoá hiện thân rắn, mà vẫn không hề ngại tanh hôi. Phàm là đệ tử Phật, phát nguyện thừa hành Bồ tát hạnh, thì sẵn sàng hoan hỷ đi vào các nơi đau khổ, các nơi dơ bẩn, khổ đau, nơi đó cần Từ, cần Bi, cần Trí, cần Tuệ nhất là cần pháp môn “Quán thanh tịnh không nhơ”. Thời kỳ hành giả quán nhập được “Thanh Tịnh” sắp đi vào các pháp vốn chân không thì chẳng dơ sạch, chẳng còn cấu tịnh, chẳng còn nhiễm hay bất nhiễm. Khi đã chứng đắc trình độ nhập vào pháp quán “Thanh Tịnh” và đã đắc ngộ đến trình độ không còn có giữa sự dơ và sạch khác nhau, lúc bấy giờ mới chuyển sang quán “Chơn”, tức là quán chơn không. Các pháp vốn từ chơn không hoà nhập vào các pháp, rồi từ các pháp quay hoàn trả lại chơn không.

Cái nhìn trí tuệ, hay cái nhìn Quán Thế Âm có thể giúp con người nhận ra thực chất của cuộc sống và mọi sự vật với kết quả là tư tưởng, cảm giác và giải thoát sinh khởi, hiện hữu ngay trong đời sống của họ. Vì mọi sự vật đang nói tiếng nói vô thường, khổ và vô ngã, nghĩa là chúng đang nói về ba đặc tính chân thật (tam pháp ấn) của tất cả pháp hữu vi. Do đó, nếu có thể lắng nghe những tiếng nói ấy như thật, chắc chắn chúng ta sẽ đi ra khỏi sự chấp thủ về một cái ngã sai lầm, không có các ý tưởng “về tôi”, “của tôi” và “tự ngã của tôi” trong tâm thức chúng ta. Như vậy khổ đau không có nơi để trú ẩn.

Vì vậy, muốn thành tựu mục tiêu của cuộc sống, thành tựu trí tuệ và hạnh phúc vĩnh hằng, không còn phương cách nào ngoài sự giác tỉnh của nội tâm, phải giác tỉnh ngay, giác tỉnh đối với ngũ uẩn mới gọi là sống, một lối sống chánh hạnh đối với vô tham, vô sân, vô si, giải quyết mọi chướng duyên trong hành trình đến bờ giải thoát. Cái nhìn đó chính là “tuệ quán” là sự quán xét bằng trí tuệ về ngũ uẩn, về vạn pháp duyên sinh vô ngã ngay chính hiện tại.

Tóm lại, thực tập hạnh lắng nghe và thấu hiểu theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm để đi vào cuộc đời làm lợi ích cuộc đời. Muốn thấu hiểu thì phải lắng nghe và ngược lại. Quán Thế Âm là lắng nghe âm thanh của chúng sinh, nơi nào có tiếng kêu khổ đau thì Bồ tát thị hiện để cứu khổ. Cuộc đời còn lắm nỗi khổ đau nên rất cần đến sự lắng nghe và thấu hiểu. Đây cũng là nguyên tắc vàng áp dụng giữa cuộc đời nhằm kiến tạo niềm an lạc, hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta hãy chịu khó lắng nghe, vì còn biết bao nhiêu nỗi khổ niềm đau cần ai đó lắng nghe để thấu hiểu. Vợ chồng lắng nghe nhau, anh lắng nghe em, thầy lắng nghe trò… để thấu hiểu nỗi niềm của họ, nhằm xoa dịu nỗi đau trong tâm họ. Có thể từ một cử chỉ nhẹ nhàng này mà làm thay đổi cuộc đời theo hướng tích cực hơn. Như Trịnh Công Sơn nói: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Mọi người đừng nên vô tâm mà hãy thấu hiểu và yêu thương hiến tặng cho đời.

Đại đức Tiến sĩ Thích Trung Định


Chú thích:

[1] Thích Thông Bửu, Kinh DPLH phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ tát giảng luận, Nxb Thế giới, tr.147.

[2] Thích Trí Nghiêm dịch, Kinh DPLH phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn giảng lục, tr.230.

650x200px

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Không ai và không điều gì thực sự có quyền khiến ta khổ
Đời sống

Ta không khổ vì mất mát, mà vì ta chấp vào ý nghĩ rằng: Cái này là của tôi, tôi không được mất nó. Tham ái và chấp thủ chính là sợi dây vô hình buộc chặt ta vào vòng luân hồi của đau khổ. Đau khổ thường được ta gán cho những lý do...

Lỗi lầm và chướng ngại lớn nhất của đời người là truyền bá thị phi
Đời sống

Vào thời xưa, người tu hành tại sao chọn ở chỗ núi sâu, nơi không có dấu chân người đến? Người tu hành vì sao không thể thành tựu? Chung sống cùng nhau bạn thử nghe, điều mà họ nói đều là thị phi, hay dở. Phía trước tôi nhìn thấy một mục công án,...

Hãy cười cho đời bớt khổ
Đời sống

Cười là một món quà nhiệm màu mà cuộc sống ban tặng cho mỗi chúng ta. Là người Phật tử, tôi luôn tin rằng, một nụ cười chân thành có thể hóa giải những nỗi khổ đau, làm nhẹ đi gánh nặng của kiếp người, và mang lại sự an lạc ngay trong chính tâm...

Khi ta mong cầu, ta đã đặt một cái “ngã” lên trên mọi sự
Đời sống

Trong dòng chảy vô tận của cuộc đời, chúng ta thường bị cuốn vào những khát khao và mong cầu. Đôi khi, ta cố gắng nắm bắt điều gì đó một thành công, một tình yêu, hay thậm chí là một cảm giác an lạc tạm thời với hy vọng rằng điều đó sẽ mang...

Cái gì rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất
Đời sống

Biết mộng rồi thức luôn hay biết mộng rồi nằm dài ngủ nữa? Đó là câu hỏi tôi đặt ra cho quí vị. Nếu chúng ta thật tình là người biết không muốn mộng nữa, thì phải gan dạ trỗi dậy, thắp đèn lên, mộng sẽ không còn cơ hội tiếp diễn nữa. Như thế...

Ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hôn nhân
Đời sống

Thông qua lời Phật dạy, với những giá trị về từ bi, trí tuệ và chân thật, mang đến những bài học quý giá giúp các cặp vợ chồng nhìn nhận, đối diện và vượt qua khó khăn trong hôn nhân một cách dễ dàng hơn. Hôn nhân không chỉ là sự gắn kết giữa...

Năm tháng dần trôi
Đời sống

Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi...

Sống cẩn thận không bao giờ là thừa
Đời sống

Sống cẩn thận là một triết lý sống quan trọng, giúp chúng ta tránh được nhiều rủi ro và sai lầm không đáng có. Dưới đây là một số gợi ý để sống cẩn thận hơn: 1. Cẩn thận khi đánh giá người khác. Bạn gặp một người được mấy lần? Bạn cảm giác về họ...

Hãy xem mình là khách viễn du
Đời sống

Hạnh phúc lâu dài không thể có được bằng việc tích lũy vật chất. Dầu có bao nhiêu bạn, họ cũng không thể khiến ta hạnh phúc. Hoặc đắm chìm trong sắc dục không ích lợi gì ngoài việc đưa ta đến khổ đau. Khoảng chừng 50 năm nữa thì tôi, Tenzin Gyatso, một tu...

Chuyển hoá nhận thức, sống đời an lạc
Đời sống

Cải thiện nhận thức không chỉ là chìa khóa cho sự chuyển hóa bản thân mà còn là nền tảng để ta tìm được con đường dẫn đến hạnh phúc thật sự – một trạng thái mà đức Phật gọi là tâm bất động trước mọi khổ đau. Trong cuộc sống đầy rẫy biến động...

Chúng ta mãi “quanh quẩn trong vòng buồn giận”
Đời sống

Có thể ta đã từng mắc kẹt vào những tranh chấp được mất, thị phi và lao đao trong ghét thương buồn tủi; và ta đã “Xem thường bảo vật trong tay” như sức khỏe, thời gian, tiền bạc và tuổi trẻ… Để rồi “Dày đạp lên trên hạnh phúc” mà đi, thật xót xa...

Vipassana và kinh doanh
Đời sống

Vipassana (Thiền Minh sát) là một môn khoa học vĩ đại, môn khoa học tâm thức để hiểu biết về hiện tượng vật chất. Đây là một quá trình thanh tịnh tâm thức, không bị bó buộc bởi môn phái, giai cấp hay tín ngưỡng. Vipassana (Thiền Minh sát) là một môn khoa học vĩ đại,...

Huy hoàng nhất của đời người là gì, bạn có biết không?
Đời sống

Chỉ cần có những khoảng lặng, tâm yên tĩnh, dạ bình an, bạn sẽ chinh phục được những bão giông đang gào thét trong lòng. Bạn sẽ nhận ra rằng, những nỗi khổ tâm kia, những vết trầy xước kia, cũng chỉ là một trong những khoảnh khắc bất như ý bên đời… Nhân sinh...

Chuyển hóa cảm xúc tiêu cực
Đời sống

Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm. Nhận thức đúng sẽ giúp chúng ta đạt được sự giải thoát sâu sắc này. Mở đầu: Xã hội phát triển nhanh, nhu cầu về đời sống của con người...

Sự kiện lịch sử của Phật giáo Việt Nam
Điểm nhìn, Sự kiện

Sau khi đất nước được độc lập và hòa bình, thống nhất Phật giáo là nguyện vọng của tất cả Tăng Ni, Phật tử trong cũng như ngoài nước. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, các tổ chức, giáo hội, hệ phái có mặt ở nước ta đã cùng một ý...

Bí quyết nấu món chay ngon, đủ dinh dưỡng
Đời sống

Ăn chay không chỉ là cách để sống khỏe mạnh mà còn góp phần bảo vệ môi trường và thể hiện lòng từ bi. Tuy nhiên, để duy trì sức khỏe tối ưu khi ăn chay, việc nấu các món chay đầy đủ dinh dưỡng là rất quan trọng. Dưới đây là những bí quyết...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.