Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người đều có hình ảnh về vị Bồ-tát luôn đầy lòng bi mẫn này.

Ngài là một đối tượng tín ngưỡng thiêng liêng nhưng đồng thời là một người Mẹ thân thương luôn là chỗ dựa cho con cái trên đường đời lắm thác ghềnh, đầy chông gai.

Nguồn gốc của tín ngưỡng Quán Thế Âm

Quán Thế Âm, hay Quan Thế Âm Bồ-tát, thường gọi là Quan Âm Bồ-tát1, xuất phát từ Phạn ngữ Avalokiteśvara, dịch là Quán Tự Tại, là một vị Bồ-tát tiêu biểu nhất của Phật giáo Đại thừa, được đề cập đến trong kinh Pháp hoa tam muội, gồm 6 quyển, bản dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ được biết sớm nhất là của Ngài Chi Cương Lương Tiếp năm Ngũ Phụng thứ 2, triều đại nhà Ngô thời Tam Quốc (năm 255). Sau đó, có nhiều bản dịch của các pháp sư lỗi lạc, nhưng thông dụng hơn cả là bản dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập (Diệu pháp Liên hoa kinh) năm Hoằng Thỉ thứ 8 đời Diêu Tần (406), trong đó phẩm Phổ môn đặc biệt được dành để nói về hành trạnghạnh nguyện cứu khổuy lực và 33 ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Qua khảo cứu về lịch sử tư tưởng Phật giáo và lịch sử Phật giáo thế giớitruyền thống Phật giáo Đại thừa công nhận có vô số vị Bồ-tát, nhưng Bồ-tát Quán Thế Âm là một vị được tín ngưỡng nhiều nhất ở Á Đông, đặc biệt là ở các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật BảnTrung QuốcTây TạngĐài Loan và Việt Nam.

Công hạnh tu tập của Ngài cũng được đề cập trong các kinh A Di ĐàThủ Lăng nghiêmHoa nghiêm… với nhiều khía cạnh khác nhau, chung quy có thể tóm tắt như sau: Trong vô lượng kiếp quá khứ, Ngài đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Như Lai, nhưng với nguyện lực Đại bivì lợi ích của tất cả chúng sinh nên Ngài đã thị hiện ra hình thức Bồ-tát để cứu khổ cứu nạntrợ duyên cho những ai phát tâm hướng thượng từ bỏ tham lamsân hận và si mê trong ba cõi. Thế nên, có nơi tôn xưng Ngài là “Phật Quán Thế Âm”, hay dân gian thường gọi danh hiệu qua hình tướng là “Phật Bà Quán Thế Âm”, “Phật Bà Quan Âm”, v.v…

Qua khảo cứu về lịch sử tư tưởng Phật giáo và lịch sử Phật giáo thế giớitruyền thống Phật giáo Đại thừa công nhận có vô số vị Bồ-tát, nhưng Bồ-tát Quán Thế Âm là một vị được tín ngưỡng nhiều nhất ở Á Đông, đặc biệt là ở các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật BảnTrung QuốcTây TạngĐài Loan và Việt Nam.

Bồ-tát Quán Thế Âm xuất phát từ tín ngưỡng Phật giáo Ấn Độ trong thời kỳ phát triển của Phật giáo Đại thừa. Điểm đặc biệt là ở Ấn Độ Ngài có hình dáng nam nhânhình dáng nam tướng đó vẫn được bảo lưu ở Nhật BảnTây Tạng mà chúng ta còn thấy được qua các tác phẩm điêu khắc được thờ tại các chùa, bảo quản tại các bảo tàng mỹ thuật…, nhưng khi du nhập Trung Hoa và Việt Nam thì Ngài lại chủ yếu mang hình dáng nữ nhân, với nhiều biến tướng rất phong phú và sinh độngăn sâu vào tâm thức của mọi người với ý nghĩ Ngài là vị Phật Bà luôn sẵn sàng cứu nguy phò khốn, luôn có mặt để cứu vớt tất cả chúng sinh đang chịu thống khổ mà nhớ nghĩ và có lời cầu cứu đến Ngài.

Hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm

Quán Thế Âm nghĩa là vị Bồ-tát chuyên nghe âm thanh của thế gian để cứu vớt khổ nạn. Theo kinh A Di Đà, cùng với Bồ-tát Đại Thế Chí, Ngài là thị giả của Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực lạc. Đức A Di Đà tọa vị giữa, bên trái của Đức Phật là Ngài, bên phải là Đức Đại Thế Chí, hình thành nên Tây phương Tam thánh phổ biến trong cách thờ phượng ở miền Bắc và miền Trung nước ta hiện nay. Dù trú xứ của Ngài là ở thế giới Tây phương, nhưng hễ nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh là lập tức Ngài có mặt để cứu độ.

Phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa đề cập: vì hạnh nguyện cứu khổtùy theo duyên nghiệp của chúng sinh, Ngài thị hiện qua 33 ứng thân, từ thân Phật, Độc Giác, trời, người… đến thân đồng nam, đồng nữ. Ngài thường dùng 14 năng lực vô úy để cứu độ chúng sinh khỏi các ách nạn và ban phước đức đến những ai thành tâm niệm đến danh hiệu của Ngài.

Một số bản kinh khác như Nhất thiết công đức Trang nghiêm vương kinh thì cho rằng Bồ-tát Quán Thế Âm là thị giả của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Kinh Hoa nghiêm nói rằng đạo tràng của Ngài ở núi Bồ-đà-lạc trên biển Nam Hải, còn kinh Quán Thế Âm Bồ-tát cứu khổ thì cho rằng đạo tràng của Ngài ở núi Phổ Đà (tỉnh Chiết GiangTrung Quốc). Mật tông thì quan niệm Ngài là hóa thân của Đức Phật A Di Đà…

Nói đến đạo Phật, thông thường người ta nghĩ ngay đó là đạo của Từ bi cứu khổ. Với ý nghĩa đó, Đức Quán Thế Âm là hình tượng đại biểu nhất cho đạo Phật theo quan niệm của dân gian

Tuy có một số điểm khác nhau về các chi tiết ứng thânđạo tràng, trú xứ của Bồ-tát Quán Thế Âm (như kinh Pháp hoa thì cho rằng Ngài có 33 ứng thân, còn kinh Lăng nghiêm thì nói là 32…), nhưng tất cả kinh điển Đại thừa có đề cập đến Ngài đều có cùng điểm chung là đều xác định Ngài là vị Bồ-tát có hạnh nguyện Đại bi, luôn lắng nghe tiếng kêu thống khổ của chúng sinh trong ba cõi và luôn hiện diện qua các ứng thân phù hợp với căn cơ của muôn loài nhằm cứu vớt chúng sinh thoát khỏi các ách nạn trầm luânđáp ứng các nguyện vọng chính đáng của các chúng sinh đang ở trong sự thống khổtuyệt vọng mà còn thiện duyên nhớ nghĩ, niệm danh hiệu của Ngài.

Với hạnh nguyện cứu khổ và năng lực vô biên thể hiện qua các ứng thân, nên ngoài tôn tượng mang mang hình dáng nam tướng vẫn được bảo lưu ở một số truyền thống Phật giáo như Tây TạngNhật Bản như chúng ta vẫn còn thấy, còn ở Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, từ đời Đường trở về sau, hình dáng Ngài thường được thể hiện qua tướng nữ nhân từ biquảng đại, luôn quan tâm lo lắng và đối với chúng sinh như tình mẫu tử thân thiết và thiêng liêng.

Ngoài rahình tướng của Ngài cũng được thể hiện rất đặc biệt: từ một đầu, 3 đầu, 5 đầu,…, 1.000 đầu, cho đến 8.400.000 đầu; mắt thì từ 2 mắt, 3 mắt,…, cho đến 8.400.000 con mắt; tay cũng thế, từ 2 tay, 4 tay,…, 1.000 tay, cho đến 8.400.000 tay. Tất cả chỉ để thể hiện khả năng cứu độ của Ngài là rất lớn, bất khả tư nghì theo hạnh nguyện Đại bi cứu độ hết thảy chúng sinh đang chịu khổ đau mà Ngài đã phát thệ.

Ví trí của Bồ-tát Quán Thế Âm trong văn hóa – tín ngưỡng Việt Nam

Phật giáo hiện hữu trên đất nước ta rất sớm. Theo Giáo sư Lê Mạnh Thát trong sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam thì Phật giáo đã có mặt tại nước ta từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch.

Từ thế kỷ thứ II trở đi, cũng theo Giáo sư Lê Mạnh Thát, một số kinh điển Đại thừa đã được dịch và phổ biến từ Trung tâm Phật giáo Luy Lâu.

Qua một tư liệu văn bản hết sức quý hiếm là 6 lá thư trao đổi giữa Lý Miễu, một thái thú ở Giao Chỉ với 2 vị thầy của mình là các Pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh có nhắc đến tư tưởng kinh Pháp hoa tam muội trong cuộc tranh luận về tư tưởng Phật học là “Tại sao không thấy được Phật” (nạn Phật bất kiến hình sự). Đến thế kỷ thứ III, toàn văn kinh Pháp hoa tam muội đã được vị Tăng gốc Ấn Độ sống và tu tập tại Giao Chỉ thời bấy giờ là Chi Cương Lương Tiếp chuyển dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ với sự cộng tác của Tăng sĩ Việt Nam là Đạo Thanh (220?–300). Như đã đề cập, hành trạng của Bồ-tát Quán Thế Âm được nói đầy đủ nhất là trong kinh Pháp hoa, và như vậy, qua cứ liệu lịch sử này, chúng ta có thể thấy rằng tín ngưỡng Quán Thế Âm đã hiện hữu trên đất nước ta rất sớm, muộn lắm là từ thế kỷ thứ III.

Suốt 27 thế kỷ qua, với sự giao lưu, tiếp biến văn hóa Trung Hoa, trong đó có Phật giáotín ngưỡng về vị Bồ-tát này được làm cho phong phú thêm trên nền tảng bản địanhân dân tôn thờ Ngài như một vị bảo hộ toàn năng nhưng không phải vì thế mà Ngài xa xôi như một vị thượng đế nào đó mà lại rất gần gũi với con người trong mọi hoàn cảnh, với tất cả chúng sinh không phân biệt xuất thânthành phần xã hội. Ngài được dân chúng gọi một cách thân thiết là “Đức Phật Bà”, hồng danh của Ngài trở nên thường trực trong lời khấn cầu của mọi người mỗi khi gặp sự nguy khốn hay trong các khóa lễ cầu nguyện thông thường.

Có thể nói, ở nước ta hiện nay, Đức Quán Thế Âm là vị Bồ-tát được thờ phượng phổ biến nhất, hình tượng của Ngài hiện diện tất cả mọi nơi, không chỉ trong các chùa chiền, mà thường được người dân thờ tại tư gia, tôn tượng của Ngài được xây dựng lộ thiên tại các nơi công cộng thường xảy ra tai nạn, hiểm nguy, thậm chí hiện diện cả trên các phương tiện giao thông của người dân, v.v…

Hình tượng của Ngài cũng đã đi vào nghệ thuật điêu khắc, là suối nguồn sáng tạo để lại nhiều tác phẩm bất hủ mà điển hình như tượng Phật Bà Nghìn Tay Nghìn Mắt ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Hình tượng đó sẽ được tái hiện trong lễ đúc tượng tại chùa Diên Phúc của chúng ta hôm nay.

Ở nước ta hiện nay, Đức Quán Thế Âm là vị Bồ-tát được thờ phượng phổ biến nhất, hình tượng của Ngài hiện diện tất cả mọi nơi, không chỉ trong các chùa chiền, mà thường được người dân thờ tại tư gia, tôn tượng của Ngài được xây dựng lộ thiên tại các nơi công cộng thường xảy ra tai nạn, hiểm nguy, thậm chí hiện diện cả trên các phương tiện giao thông của người dân…

Hạnh nguyện Đại bi cứu khổ chúng sinh của Ngài cũng đã đi vào văn học, sân khấu truyền thốngtrở thành những hình tượng nghệ thuật, những giá trị sống: Từ bi và Nhẫn nhục được dân gian ứng dụng và lấy làm lề lối xứng xử tốt đẹp bao đời, trở thành những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.

Hơn thế nữa, hành trạng của Ngài cũng đã đi vào đời sống tín ngưỡng sinh động của dân chúng, “Phật Bà Quan Âm” không chỉ là đối tượng chiêm báicầu nguyện thông thường, mà trở thành nội dung của nhiều lễ hội mang tầm ảnh hưởng rất lớn trên cả nước, như lễ hội chùa Hương (Hà Nội), lễ hội Quán Thế Âm ở Non Nước (Đà Nẵng)…

Có thể nói rằng, Đức Quán Thế Âm là vị Bồ-tát được dân chúng tín ngưỡng nhất và được thờ phượng phổ biến nhất ở nước ta hiện nay. Hình tượng của Ngài gần như là đại diện cho đạo Phật Việt Namvô cùng thiêng liêng và ứng nghiệm nhưng đồng thời cũng rất gần gũi với con người trong mọi hoàn cảnh của đời sống thường ngày.

***

Nói đến đạo Phật, thông thường người ta nghĩ ngay đó là đạo của Từ bi cứu khổ. Với ý nghĩa đó, Đức Quán Thế Âm là hình tượng đại biểu nhất cho đạo Phật theo quan niệm của dân gian.

Hình ảnh Phật giáo ăn sâu trong tiềm thức của nhân dânđi vào văn hóa nghệ thuật và hình thành nên những hình tượngtác phẩm nghệ thuật độc đáo và bất hủ, đi vào đời sống dân gian qua nghệ thuật sân khấu và các áng thi ca đầy diễm lệ. Ngài là vị Bồ-tát, là “Phật Bà”, “Mẹ hiền Quan Âm”, là bà mẹ trong tất cả bà mẹ luôn sẵn sàng cứu khổ phò nguy cho dân chúng, cho xứ sở trong những hoàn cảnh đặc biệt và là vị bảo hộ toàn năng trong đời sống thường ngày. Đó là kinh nghiệm tâm linh, là ứng xử văn hóa được đúc kết qua một quá trình lịch sử lâu dài, là một trong những biểu hiện của sự gắn bó mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc, biểu hiện cho việc giáo lý đạo Phật không hề phủ nhận nền văn hóa bản địa, mà khiêm tốn khép mình, góp phần làm phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc.

Ngài là vị Bồ-tát, là “Phật Bà”, “Mẹ hiền Quan Âm”, là bà mẹ trong tất cả bà mẹ luôn sẵn sàng cứu khổ phò nguy cho dân chúng, cho xứ sở trong những hoàn cảnh đặc biệt và là vị bảo hộ toàn năng trong đời sống thường ngày. Đó là kinh nghiệm tâm linh, là ứng xử văn hóa được đúc kết qua một quá trình lịch sử lâu dài, là một trong những biểu hiện của sự gắn bó mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc.

Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người đều có hình ảnh về vị Bồ-tát luôn đầy lòng bi mẫn này. Ngài là một đối tượng tín ngưỡng thiêng liêng nhưng đồng thời là một người mẹ thân thương luôn là chỗ dựa cho con cái trên con đường đời lắm thác ghềnh, đầy chông gai.

Hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm qua các tôn tượng độc đáo như Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ở chùa Bút Tháp cũng như nhiều chùa khác, như tượng Đức Quán Thế Âm tọa sơn ở Hương Tích, v.v… đã trở thành di sản văn hóa vật thể quý giá của đất nước.

Tư tưởng Phật giáo Đại thừa được thể hiện qua hành trạng của Bồ-tát Quán Thế Âm và tín ngưỡng liên quan đến Ngài đã hình thành nên các lễ hội thiêng liêngđi vào văn học, nghệ thuật sân khấu, đạo đức lối sống… và góp phần quan trọng hình thành nên giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc, có sức sống mãnh liệt được thử thách qua thời gian và các hoàn cảnh khắc nghiệt khác – góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.

HT. Thích Giác Toàn


1 Theo Phật Quang Đại từ điểnsở dĩ gọi là Quan Âm vì có nguyên nhân do kỵ huý chữ “Thế” ở đời Đường ở Trung Quốc, nên sách vở thường viết lược đi, từ đó cách gọi dân gian phổ biến là “Quan Âm”. Danh xưng Ngài còn được dịch là Quan Thế Âm Bồ-tát, Quán Tự Tại Bồ-tát, Quan Thế Tự Tại Bồ-tát, Quan Thế Âm Tự Tại Bồ-tát, Hiện Âm Thanh Bồ-tát, Cứu Thế Bồ-tát, Quan Âm Đại Sĩ…
Bài in trên báo giấy Giác Ngộ số 1273

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Vai trò của Phật giáo trong việc xây dựng quốc gia Đại Việt thời Lý – Trần
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mở đầu Từ buổi đầu du nhập Phật giáo đã sớm hòa mình vào trong tín ngưỡng văn hóa bản địa và bén rễ sâu vào trong đời sống xã hội, gắn bó với dân tộc. Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã không ngừng đóng góp trong sự nghiệp dựng nước và giữ...

Nghiên cứu về ngày, tháng Thành đạo của Ðức Phật
Lịch sử, Nghiên cứu

Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha; với Phật giáo Bắc truyền, ngày Thành đạo diễn ra vào ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch. Trong ngày hôm nay, thời gian tổ chức sự kiện Đức Phật...

Những nhân vật tiêu biểu trong quá trình hình thành Tổng hội Phật giáo Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu

Quá trình hình thành Tổng Hội Phật giáo Việt Nam năm 1951 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, khi Phật giáo chính thức có một tổ chức đại diện thống nhất trên toàn quốc. Bối cảnh lịch sử – xã hội và thực trạng Phật giáo Việt Nam đầu...

Ý nghĩa các tên gọi của ngôi chùa dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Ngôi chùa từ lâu đã hiện hữu và gắn bó thiết thân trong mỗi chúng ta. Khắp nơi nơi trên cả nước, đâu đâu cũng có chùa, lớn có, nhỏ có, kim có, cổ có, tất cả đã trở thành một phần không thể tách rời trong cộng đồng làng xã Việt Nam. Về tên...

Khảo cứu lịch sử chất liệu ghi chép lưu trữ kinh Phật
Lịch sử, Nghiên cứu

Thời điểm xưa nhất tài liệu ghi chép, Vua A Dục (Asoka, 268-233 trước Dương lịch) vào lần tập kết kinh điển lần thứ 3 đã cho cán mỏng đồng đỏ thành lá để ghi chép và lưu trữ kinh Phật. Tổng lược các lần tập kết kinh điển theo góc nhìn các nhà nghiên...

Văn bia Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thời Nguyễn (1802-1945): Một số vấn đề về hình thức
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Theo đà tiến bước của lưu dân Đại Việt về phương Nam, Phật giáo cũng từng bước xuất hiện và cắm rễ sâu trên vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, trở thành một yếu tố văn hóa không thể tách rời trong bức tranh đa sắc của tiểu vùng văn hóa xứ Quảng. Trong...

Các Giống Dân Cổ Ấn Trước Thời Đức Phật
Lịch sử, Nghiên cứu

Theo các tài liệu cho biết rằng ngày xưa, ở Ấn Độ chỉ có một giống dân tên Negro da đen, tóc quăn, nhỏ con và mặt choắt. Họ không biết canh tác trồng tỉa gì cả. Hiện nay, giống dân này còn sót lại ở một số vùng cao tại Ấn Độ và châu...

Khởi Nguồn Giáo Hội Phật Giáo Nam Tông Kinh Việt Nam
Lịch sử, Nghiên cứu

Trong thập niên 1920 và 1930, ở Việt Nam có nhiều phong trào hồi sinh và canh tân các hoạt động Phật Giáo. Song song với sự chỉnh đốn các tổ chức Phật Giáo Phát Triển còn có nhiều chú tâm đến các hoạt động của truyền thống Nguyên Thủy, về hành thiền và các...

Lịch Sử Của Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma)
Lịch sử, Nghiên cứu

Trong tuần lễ thứ tư sau khi Đức Phật giác ngộ, Ngài đã suy xét một cách chi tiết về Vô Tỷ Pháp là cốt lõi liên quan đến pháp siêu lý (Tâm, Sở hữu tâm, Sắc pháp, Níp-bàn) cũng là cốt lõi của giáo pháp trong Phật giáo suốt 7 ngày. Trong lúc suy...

Lan toả của dòng Lâm Tế Gia Phổ tại tổ đình Giác Lâm
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Các chúa Nguyễn thực hiện chính sách di dân, mở cõi về phía Nam của đất nước, theo các đoàn di dân có các thiền sư người Việt Nam và Trung Hoa. Mở cõi đến đâu, các thiền sư đều lập am, chùa đến đó để làm chỗ dựa tinh thần cho người dân trên...

Rồng trong mỹ thuật Phật giáo thời Lý: Từ huyền thoại đến hiện thực
Kiến trúc-Mỹ thuật, Nghiên cứu

Hình ảnh rồng trong thời Lý không chỉ phong phú về hình dáng và truyền thuyết, mà còn thể hiện sự kết nối chặt chẽ với những giá trị tâm linh và văn hóa. Mở bài Khi đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, kiến trúc Phật giáo bắt đầu chập chững những...

Sự hình thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm thời nhà Trần
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Việc ra đời Thiền phái Trúc Lâm đã kết thúc thời kỳ các tông phái Phật giáo Việt Nam do người nước ngoài sáng lập, chứng minh Phật giáo đã thực sự bắt rễ tại Việt Nam, thực sự được người Việt đương thời tiếp thu và phát triển. Tóm tắt: Nhà Trần (1226-1400) là...

Triết lý Phật giáo qua bài Kệ vô thường lúc bấy giờ của Trần Thái Tông
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Mở đầu Nhà Trần, như một ngọn hải đăng sáng chói giữa biển cả lịch sử phong kiến Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc. Trong suốt 175 năm trị vì, với mười hai đời vua và bảy năm thời hậu Trần, triều đại này không chỉ nổi bật...

Văn học Phật giáo Đàng Trong: Sự dung hòa tư tưởng Phật – Nho – Đạo
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Hòa hợp Tam giáo không phải là sự dung hợp mang tính áp đặt, mà là sự bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên một hệ tư tưởng toàn diện Trong dòng chảy lịch sử văn hóa Việt Nam, sự dung hợp giữa Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo (Tam giáo đồng...

Văn học Phật giáo Đàng trong và sự dung hợp các tông phái Phật giáo
Lịch sử, Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

Trong bối cảnh lịch sử đặc thù, sự dung hợp giữa các tông phái Thiền tông, Tịnh độ tông, và Mật tông không chỉ phản ánh tinh thần sáng tạo của Phật giáo mà còn khẳng định vai trò trung tâm của nó trong đời sống xã hội. Trong lịch sử phát triển văn hóa...

Triết học cho giáo dục gia trong thế giới cuồng loạn
Nghiên cứu, Văn hóa - Xã hội

“Chúng ta đang thiếu tinh thần công cộng và lòng ái quốc chân chánh ngay bây giờ. Chúng ta còn đang mưu cầu lợi ích cá nhân, gia đình quá nhiều. Nếu mưu lợi này được thỏa mãn, xin đừng nhân danh này, nọ đến mọi người, khi sự việc bất hạnh xảy đến họ....

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.