Hòa thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện, cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.

Truyền trao đèn pháp

Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà – Đà Nẵng, Hải Đức – Nha Trang, Quảng Hương Già Lam – Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.

Đối với việc đào tạo tăng tài, Ngài đào tạo đầy đủ cả ba mặt Giới học, Định học và Tuệ học.

Đối với giới học, Ngài luôn luôn vận động chư tôn đức mở các đại giới đàn để thí giới cho các giới tử cầu thọ bao gồm cả giới tử xuất gia và tại gia đủ cả giới Thanh văn và Đại thừa giới. Không những vậy, Ngài còn dạy giới luật cho các giới tử một cách cẩn mật và tế nhị. Ngài đã dịch và chú giải các luật Yết ma, Tứ phần làm tài liệu học tập cho các học tăng của nhiều thế ở trong các Phật học viện.

Vì vậy, Ngài Giác Nhiên và nhiều cao tăng khác ở Huế đã tặng Ngài bức hoành với bốn chữ sơn son thiếp vàng: “Giới Châu Quảng Thí”. Nghĩa là vị Bồ tát có khả năng thực hành bố thí rộng rãi các loại châu báu của giới pháp.

Đối với định học, có lần Ngài hỏi anh em học tăng chúng tôi rằng: “Quý vị có biết Đức Phật dạy pháp căn bản cho sự nhiếp tâm là pháp nào không?” Anh em chúng tôi chưa ai kịp trả lời thì Ngài lại dạy tiếp: “Pháp Tứ niệm xứ và Pháp ngũ đình tâm quán là pháp căn bản cho việc nhiếp tâm”.

Ngài kết hợp nhuần nhuyễn giữa Thiền Tông và Tịnh Độ để dạy dỗ cho anh em tăng sinh chúng tôi. Ngài dạy: “Thiền là để định tâm và kiến tánh thành phật; Tịnh độ không phải chỉ để định tâm kiến tánh thành Phật mà còn phải lập Tín, Hạnh và Nguyện để trang nghiêm tự thân và thế giới, nhằm báo đáp tứ ân, cứu giúp ba cõi”. Ngài đã khuyến khích học tăng chúng tôi, phải trang nghiêm tự thân và thế giới mỗi ngày, bằng cách mỗi buổi tối phải cùng nhau ngồi thiền tại chánh điện ít nhất là từ nửa giờ cho tới một giờ, và mỗi khuya cùng nhau lễ Phật 108 lạy, để nuôi duỡng và tăng trưởng Tín, Hạnh và Nguyện.

Đối với tuệ học, Ngài đã chú giải Bát Nhã Tâm Kinh làm tài liệu cho anh em học tăng chúng tôi học tập (nghiên cứu Bát Nhã Tâm Kinh và trích dẫn lời dạy của Ngài).

Hòa Thượng không phải chỉ dạy chúng tôi bằng lý thuyết mà bằng chính sự thực hành của Ngài.

thichtrithu-chandung

Chúng tôi là những thế hệ học tăng theo học Phật học tại Phật học Viện Báo Quốc, Huế và đã được Ngài tổ chức trao giới pháp cụ túc tại giới đàn Phước Huệ, tại Phật học viện Hải Đức Nha Trang, năm 1973, do chính Ngài làm đàn chủ và Hòa Thượng Phúc Hộ làm đàn đầu.

Tuy nhiên, bất cứ lãnh vực nào mà Ngài đã dấn thân hành động, thì không phải Ngài làm cho mình, mà vì lợi ích của nhiều thế hệ học tăng, vì lợi ích của nhiều người, vì lợi ích của dân tộc, nhân loại và muôn loài. Hạnh nguyện của Ngài chỉ có một là thượng cầu phật đạo hạ hóa chúng sanh, nhưng hình thức để thực hiện hạnh nguyện ấy thì vô lượng.

Bài kệ niêm hương cúng dường vào buổi sáng của Ngài đã nói cho ta ý nghĩa ấy như sau:

“Phần hương nhất nguyện Pháp không

Đại nguyện đồng tham biến cát tường

Sát hải trần thân thi diệu lực

Trầm kha chướng loại tận an khương”.

“Đốt nén tâm hương dưới Phật đài

Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai

Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo

Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài”.

Đối diện với kẻ ác để đấu tranh là người hùng, nhưng đi theo với kẻ ác để che chở cho những người hiền và biến kẻ ác trở thành người hiền thì không phải chỉ là người hùng mà là một vị Bồ tát đích thực. Điều ấy, tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.

“Có lẽ nhờ túc duyên hiếm có, nên mỗi bước đường đạo của tôi đều gần như bước trùng lên dấu bước của thầy, khiến cho mỗi lần nghĩ nhớ thời gian quá khứ của đời mình, tôi thấy bóng dáng của mình lồng trong bóng dáng vĩ đại của Thầy”.

Hòa thượng Thích Trí Thủ (đứng bên trái) với Đức Đệ nhất Tăng thống - Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết

Hòa thượng Thích Trí Thủ (đứng bên trái) với Đức Đệ nhất Tăng thống – Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết

Giữ tâm bình thường

Năm 1977, tại Phật học viện Báo Quốc – Huế, Hòa thượng dạy luật cho anh em học tăng chúng tôi, trong giờ dạy luật Hòa Thượng nói: “Bình thường tâm thị đạo”. Nghĩa là tu tập, ta phải giữ cho cái tâm của ta luôn luôn được bình thường. Cái tâm bình dị, thường tại ấy chính là đạo.

Học đạo là học cái tâm bình dị ấy nơi ta. Tu đạo là hành theo cái tâm bình dị ấy nơi ta mỗi ngày, trong bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi , nhờ vậy mà ta có đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh để chế ngự và chuyển hóa tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não ngày đêm chuyển hiện ở nơi tâm thức ta.

Hòa thượng dạy rằng: “Ta đi đến đâu, mọi người đem tâm bình dị mà đối xử với ta, ta biết rằng, ta có thể sống lâu với người ấy và người ấy có thể sống lâu với ta. Người ấy với ta có thể trở thành thân hữu lâu dài. Ta có thể lưu trú lâu dài ở nơi trú xứ của người ấy để làm phật sự”.

“Ta đi đến đâu mà mọi người đem tâm rất mực cung kính ta, đãi đằng ta, cung đón ta với những lễ nghi trọng thể cầu kỳ, thì ta biết rằng, trú xứ ấy ta không thể sống lâu, mọi người trong trú xứ ấy không thể là thân hữu của ta lâu dài, sau khi hoàn tất công việc, ta nên cảm ơn họ và tìm cách từ giã, không nên dừng chân lâu để làm phật sự ở trú xứ đó. Tại sao? Vì sự trọng đãi tiếp rước như vậy, chúng không phải đi từ cái tâm giản dị, bình thường mà từ cái tâm cầu kỳ, mất bình thường. Cái gì phức tạp, cầu kỳ, mất bình thường, cái ấy không thể tồn tại lâu dài được”.

Đó là bài học mà tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.

Hòa thượng Thích Trí Thủ hộ hương cho các giới tử

Hòa thượng Thích Trí Thủ hộ hương cho các giới tử

Giây bìm bị cắt

Ở Phương trượng Tu viện Quảng Hương Già Lam, mỗi buổi sáng ba giờ là Hòa Thượng đã thức dậy, tĩnh tọa, uống trà và sau đó đi vào chánh điện Lễ Phật 108 lạy, theo nghi lễ sám mà chính Ngài đã soạn để hành trì.

Ngoài những khóa hành trì chung với đại chúng, Ngài còn hành trì riêng tại Phương trượng. Sau những thời khóa như vậy, Ngài còn tưới cây cho những cây kiểng trong vườn chùa. Việc tưới cây của Ngài không phải là để đối phó với những công việc như những người khác mà là một pháp hành từ bi rất thâm diệu.

Trước khi tưới, Ngài lượm hết tất cả những lá vàng trên cây và trên chậu và Ngài tưới chậm rãi từ ngọn cho tới gốc và từ gốc cho tới ngọn. Ngài không phải chỉ tưới cho cây sống mà còn làm cho cây sống, xanh và sạch từ trên đọt cho xuống dưới gốc và từ dưới gốc cho đến trên đọt và từng kẽ lá.

Có lần Ngài vì Phật sự phải đi xa một tuần, đại chúng lại cử một vị khác chăm sóc vườn cây, chậu kiểng, nhưng vườn cây, chậu kiểng đã không xanh đẹp và sạch như chính Ngài đã chăm sóc. Trên chậu và cây có nhiều lá vàng úa, lại thêm cây bìm bìm leo nơi cây bồ đề, đã bị một vị khác cắt đứt dây còn vắt héo trên cây, nhân đây Ngài đã gọi anh em chúng tôi mà dạy: “Quý vị tu tập phải chăm sóc tâm từ bi của mình mỗi ngày đừng bao giờ để khinh suất. Kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy: “Dĩ từ tu thân”, quý vị đã học kinh Pháp hoa rồi mà!”

Ngài dạy: “Tất cả muôn vật từ hữu tình đến vô tình đều có sự sống, nên khi ta ngắt một ngọn lá, chặt một cành cây, để sử dụng cho một công việc phật sự nào đó là ta đều phải khấn nguyện và chú nguyện cho nó với tất cả tâm từ bi của ta, trước khi ta hành sự. Nếu ta không làm như vậy, oán khí của cây sẽ chạm vào tâm ta, khiến cho đức hạnh và tâm từ bi của ta bị thương tổn”.

Hòa thượng dạy, người biết tu tập thì không có cử chỉ lớn nhỏ nào mà không biểu hiện đầy đủ cả đoạn đức, trí đức và ân đức của mình.

Ta biết tu tập, thì qua những động tác hàng ngày của ta, giúp cho ta thành tựu được phước đức do đoạn trừ được hết thảy phiền não mà có. Phiền não lớn thì phước đức teo lại, phiền não teo lại thì phước đức nở ra, phiền não không còn thì phước đức viên mãn, toàn vẹn ấy gọi là đoạn đức.

Ta biết tu tập, thì ta có giác và chiếu trong mỗi hành động hàng ngày của ta, khiến cho cái biết đúng đắn sinh khởi trong ta, khiến cho ta không còn rơi vào những nhận thức sai lầm khi sáu căn tiếp xúc với ngoại cảnh, vì vậy phước đức có mặt là do trí tuệ phát sinh trong đời sống của ta. Trí năng sinh đức, đức nuôi dưỡng trí.

Ta biết tu tập, biết thiết lập hạnh và nguyện để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh từ tâm bồ đề của ta, thì không có ý nghĩ, hành động và lời nói nào của ta là không chuyển tải chất liệu từ bi. Do hành động từ bi của ta đối với các loài hữu tình và vô tình mà phước đức của ta lớn lên và thành tựu từ đó. Vì vậy, gọi là ân đức.

Nếu không có đoạn đức và trí đức, ta không bao giờ thành tựu được ân đức. Đoạn đức và trí đức của ta càng sâu, thì ân đức của ta càng lớn. Đoạn đức và trí đức của ta càng lớn, thì ân đức của ta càng phủ khắp và thấm nhuần khắp hết thảy chúng sanh từ hữu tình đến vô tình.

Đó là bài học mà tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.

Trong Phật giáo chỉ có cái thấy đúng như thực đối với vạn hữu để sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt nhân xấu ác để khỏi phải bị gặt quả khổ đau.

Trong Phật giáo chỉ có cái thấy đúng như thực đối với vạn hữu để sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt nhân xấu ác để khỏi phải bị gặt quả khổ đau.

Đối mặt với một công án

Kinh Bộc Lưu, Đức Phật dạy các Tỷ-kheo rằng: “Khi đi qua một dòng sông, không dừng lại, không đi theo mà hãy vượt qua”.

Nếu đi qua dòng sông ta dừng lại, ta sẽ bị dòng nước chảy xói mòn; nếu ta đi theo sẽ bị dòng sông cuốn trôi và nhận chìm. Nên, muốn không bị dòng sông xói mòn, cuốn trôi hay nhận chìm ta không nên dừng lại, không nên đi theo mà hãy vượt qua.

Được biết, sau năm 1975, bấy giờ ông Mai Chí Thọ làm giám đốc Sở Công an Thành phố HCM, mời Hòa thượng Thích Trí Thủ làm việc, Ông Mai Chí Thọ nói với Hòa thượng rằng: “Phật giáo có theo chính quyền không? Nếu không theo là chống. Nếu Phật Giáo chống chính quyền, chính quyền có công an, có quân đội, có nhà tù…”. Hòa Thượng cười và trả lời: “Phật giáo chúng tôi không theo mà cũng không chống”.

Câu trả lời ấy là một bài học quý báu cho tất cả Tăng Ni Phật tử chúng ta không những trong hiện tại mà còn ngay cả tương lai. Phật giáo không xu phụ bất cứ quyền lực chính trị nào và lại càng không lợi dụng bất cứ thế lực chính trị nào để truyền đạo. Tại sao? Bởi vì mọi quyền lực chính trị của thế gian đều là tạm thời, nó không phải là vĩnh cửu. Trong lúc đó đạo giải thoát, giác ngộ là vĩnh cửu và cùng khắp. Ta không thể dùng cái vĩnh cửu và cùng khắp để chạy theo và xu phụ cái tạm thời và giới hạn. Vì vậy, Hòa thượng đã trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo không theo chính quyền”.

Và, Hòa thượng cũng đã trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo không chống chính quyền”. Tại sao? Bởi vì, trong thế gian nầy không có bất cứ đối tượng nào là đối tượng để cho Phật giáo chống đối cả, kể cả chính quyền. Mọi đối tượng đang hành hoạt ở trong thế gian đều đang bị ràng buộc bởi nhân duyên sanh tử, và đang bị thúc đẩy bởi những động cơ chấp ngã và chấp pháp. Phật giáo không hề đặt những cố chấp ấy như là những đối tượng để chống đối mà đặt nó như là những đối tượng để thiền quán, để thấy rõ bản chất bất thực của chúng, nhằm vượt qua, khiến cho những bản chất bất thực ấy, không thể đánh lừa, nhằm tựu thành phẩm chất toàn giác.

Lại nữa, trong Phật giáo chỉ có cái thấy đúng như thực đối với vạn hữu để sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt nhân xấu ác để khỏi phải bị gặt quả khổ đau. Và trong Phật giáo chỉ có tâm từ bi, để giúp người khác sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt nhân xấu ác để cho họ khỏi bị gặt những kết quả khổ đau ở trong đời nầy và đời sau.

Vậy, với cái thấy ấy và với tâm từ bi ấy, Phật giáo chẳng chống ai mà cũng chẳng theo ai, mà chỉ thể hiện cái thấy ấy, cái tâm ấy dưới nhiều hình thức thuận nghịch để cứu người, giúp đời, chứ không phải bám lấy cuộc đời để hưởng thụ ngũ dục hoặc chạy theo ngũ dục trong đời để bị chúng nhận chìm trong tăm tối khổ đau.

Do đó, lời nói của Hòa thượng “Không chống mà cũng không theo” cho ông Mai Chí Thọ ngày ấy, không phải là một công án của Thiền học Việt Nam hiện đại cho tất cả chúng ta thực tập để khám phá chân nghĩa thâm diệu ở thời đại của chúng ta hay sao?!

Mỗi khi đối mặt với công án ấy, tôi thấy cuộc sống thật có ý vị và tôi đã thấy Thầy tôi luôn luôn nhìn những thế hệ học trò của Người để mỉm cười, dẫu rằng Người đã đi xa…

THÍCH THÁI HÒA

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết cùng chuyên mục:

Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Quang (1895 – 1953)
Danh Tăng

Hòa thượng Thích Thiện Quang, pháp húy Hồng Xứng, là đệ tử của Tổ Chí Thiền – Như Hiển (1861-1933), tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Ngài là bổn sư của Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), Đệ nhị Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN. I. THÂN THẾ Hòa thượng...

Đại Trưởng lão Hộ Tông (1893 -1981) – Sơ tổ Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam
Danh Tăng

Trước khi thị tịch, Ngài rất trầm tĩnh sáng suốt, giảng giải cặn kẽ về thiền an-ban sổ tức cho hàng đệ tử, và nhắc lại lời Đức Phật: “An trú hơi thở là an trú của các bậc Thánh”, rồi Ngài trút hơi thở cuối cùng với một nụ cười điểm trên nét mặt...

Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Chánh Trực (1931-1995)
Danh Tăng

Hòa thượng Thích Chánh Trực là một trong những vị giáo phẩm lãnh đạo Phật giáo qua các thời kỳ, trung kiên với lý tưởng phụng sự Đạo pháp và Dân tộc, thiết thân với chư huynh đệ trong đạo tình pháp quyến, lân mẫn và gắn bó với tín đồ ở các hoàn cảnh...

Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thông Tiến
Danh Tăng

Đi qua nhiều chốn, trụ trì ở nhiều chùa: Thiên Phúc, Đại Dương Sùng Phúc (Sủi), Sùng Phúc (Hội Xá), những cống hiến của Hòa thượng Thông Tiến với thiền môn, với nhân dân còn mãi trong tâm khảm nhân dân khắp chốn này. Thân thế Cố đại lão Hòa thượng Thích Thông Tiến[1] thế...

Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm (1921-2000)
Danh Tăng

Hoà thượng Thích Thanh Kiểm, tên thật là Vũ Văn Khang, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1921 tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định Ngài xuất gia từ năm 15 tuổi và đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo Việt Nam. Ngài viên tịch vào ngày 30 tháng...

Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Huệ (1914-1991)
Danh Tăng

Hòa thượng pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế và đời 43 thuộc phái Thiên Thai, Phó Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, Phó Tổng lý tổ đình Ấn Quang, Viện chủ chùa Huệ Nghiêm. Thân thế Hòa thượng pháp danh thượng...

9 Đại Cao Tăng Lừng Danh Trong Lịch Sử Thái Lan
Danh Tăng

9 Vị thánh tăng nỗi danh nhất trong lịch sử phật học của Thái giai đoạn năm 1582 – 1981 Các thầy có thể coi là sư tổ của các sư thầy ngày nay có 1 tầm ảnh hưỡng rất lớn trong giáo hội phật giáo Nam Tông Thái Lan những người có phật pháp...

Tiểu sử Hòa thượng Thích Giải Quảng
Danh Tăng

Tiểu Sử Hòa Thượng THÍCH NHƯ NGHĨA tự GIẢI QUẢNG Khai Sơn: Chùa Quảng Hiệp, Xã Tân Hiệp, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, và Chùa Quảng Phước, xã Phước Thái, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai. Hòa Thượng Thích Giải Quảng, thế danh Trương Đình Ân, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1944 ( nhằm...

Bậc Thầy của những vị Thầy
Danh Tăng, Tuỳ bút, Văn học

Cách đây hơn hai mươi năm, vào khoảng cuối thiên niên kỷ trước, tôi có dịp gặp và trò chuyện với thầy Tuệ Sỹ lần đầu tiên. Tôi cùng đi với Đỗ Quốc Bảo, đến thăm thầy khi ấy đang ở trên một căn gác trong khuôn viên chùa Quảng Hương Già Lam. Lúc ấy thầy...

Những câu nói hay của Hòa thượng Thích Chơn Thiện
Danh Tăng

Trưởng lão Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Viện trưởng Học viện Phật giáo VN tại Huế, viên tịch ngày 8-11-2016 (9-10-Bính Thân) tại tổ đình Tường Vân (Thừa Thiên Huế).

Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh (1936-2024)
Danh Tăng

Trưởng lão Hòa thượng đã cống hiến trọn đời mình cho Đạo pháp và Dân tộc, ngài đã đóng góp nhiều công đức trong sự phát triển, ổn định của Phật giáo TP.Hồ Chí Minh. Là bậc Tông trưởng của Thiền Tịnh đạo tràng, ngài là bậc đống lương, nương tựa của tứ chúng, góp...

Hòa thượng Tâm An phụng sự Đạo pháp và Dân tộc
Danh Tăng, Lịch sử, Nghiên cứu

Từ những buổi đầu Phật giáo suy vi, dân tộc chịu ách thống trị của thực dân Pháp, ngài tham gia cuộc chấn hưng Phật giáo Bắc Kỳ. Khi có Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngài tích cực tham gia phong trào Phật giáo Cứu Quốc. Dẫn nhập Phật...

Hòa Thượng Thích Viên Mãn (1922 – 2001) khai sơn chùa Kỳ Viên Quảng Nam
Danh Tăng

Hòa thượng thế danh Nguyễn Thanh Tịnh, pháp húy Tâm Trì, tự Chánh Không, hiệu Viên Mãn, sinh năm Nhâm Tuất (1922), trong một gia đình trung nông có truyền thống mộ đạo, nơi miền quê yên tỉnh thuộc thôn Dạ Lê, ngoại vi cố đô Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Thanh Bòng...

Hòa Thượng Thích Viên Quang – Vĩnh Thừa (Chùa Châu Lâm – Huế)
Danh Tăng

Hòa Thượng thế danh Nguyễn Hữu Ký, sinh ngày 20 tháng 11 năm Ất Dậu niên hiệu Thành Thái (1895), nguyên quán làng Đa Nghi, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị nhưng sinh trưởng tại làng Lang Xá Bàu, xã Thủy Thanh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn...

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Đàm (1924-2022) – Phó Pháp chủ GHPGVN
Danh Tăng

Cả cuộc đời của ngài sống hết mình, bình dân, giản dị, hòa nhã, nhẫn nhục, tuy rất nghiêm khắc với bản thân nhưng đối với tứ chúng lại khiêm cung hòa nhã và thường dạy các đệ tử noi gương Tổ Bách Trượng “ngày không làm thời cũng không ăn”. Phó pháp chủ Hội...

Trưởng lão Giác Chánh – Đệ nhị Tổ sư Phật giáo Khất Sĩ: Một đời nghiêm trì giới luật
Danh Tăng

Trưởng lão Giác Chánh là một trong những cao đồ của đức Tổ sư Minh Đăng Quang – người khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Trước khi vắng bóng, đức Tôn sư đã phó chúc cho Tỳ kheo Giác Chánh là người kế thừa trách nhiệm điều hành Tăng đoàn Khất Sĩ. Bởi thế về...

Ads Blocker Image Powered by Code Help Pro

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo!!!

Chúng tôi đã phát hiện thấy bạn đang sử dụng tiện ích mở rộng để chặn quảng cáo. Vui lòng hỗ trợ chúng tôi bằng cách vô hiệu hóa các trình chặn quảng cáo này.