Sau khi chọn ngày giờ tẩn liệm, vong gia tắm rửa xong, thay đồ mới, nhớ để cái phái quy y đã ép cháy, lên ngực và đắp mền Quang Minh lên thi hài (nếu có), sửa soạn đất cát trang bị quan tài và đồ liệm xong Chư Tăng mặc áo lễ chỉnh tề, đứng tôn nghiêm phía trên đầu quan tài, xông một lò trầm để vào quan tài, bắt đầu lễ trị quan.
TRỊ QUAN
Chủ lễ tán hay pháp ngữ bài: Dương chi tịnh thủy…
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát (3 lần)
Tụng chú: Đại bi, và Thập chú, 10 bài chú xem y trong khóa tụng sáng, sau cuối bài Bát Nhã, xong tiếp tụng:
Nguyện trú kiết tường dạ kiết tường…..
Vạn loại hữu tình đăng thập địa
Nam mô Siêu Thập Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Nhập liệm: bấy giờ bảo người hộ liệm võng thi hài để vào quan, chủ lễ đứng giữa đầu quan tài, nói bài pháp ngữ.
Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi
Vô sanh vô tử vô khứ lai
Sanh tử khứ lai đô thị mộng
Tốc phao trần thế thượng liên đài.
Ngưỡng bạch Di Đà Từ Tôn tiếp độ hương hồn….
Nam mô tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật (niệm luôn đến khi liệm gần xong, tiếp niệm):
Nam mô Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Thanh Tịnh… (mỗi vị 3 biến)
(nếu có liệm mền Quang Minh thì tụng 2 bài mật chú)
1/ Tỳ Lô Quán Đảnh chơn ngôn (21, 108 biến)
2/ Đại Bảo Quán Bát lâu cát hiện trụ bí mật đà la ni (21 biến)
Nguyện sanh Tây Phương…..
Nguyện dĩ thử công đức…
-Lễ tất-
————
Ý NGHĨA THẦN CHÚ MỀN QUANG MINH
Thần chú này Đức Phật dạy rõ trong kinh: “Bất không quyền tác Tỳ Lô Giá Na Phật đại quán đảnh quang minh chơn ngôn”. Thần chú là thuộc về mật giáo, nên Đức Phật dạy gia trì nguyện lực tụng chú nầy, có rất nhiều công năng lợi ích, để cứu bạt cho người khi lâm chung vậy. Vì rằng, tất cả chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay đã gây vô lượng tội lỗi nghiệp chướng, khi lâm chung nghiệp báo ấy hiển hiện như bóng theo hình, hành hạ thân xác người sắp chết và chết rồi phải đọa 3 đường ác. Trong kinh Phật dạy nên lấy chơn ngôn nầy mà gia trì vào đất hoặc cát, cho được 108 biến rổi rãi trên hài cốt của vong giả, hoặc nơi rừng chôn tử thi.
Nhờ oai lực của thần chú này và sức gia trì chú nguyện vào đất cát kia mà cảm được hào quang của chư Phật chiếu đến nơi thân vong giả, vong giả liền xả trừ được các nghiệp báo khổ não sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Trong kinh nầy cũng có dạy nên lấy lụa, vải viết bài chơn ngôn này đắp lên hi hài hoặc xương cốt của vong giả, vong giả hưởng được nhiều lợi ích lìa khổ được vui.
Sau đây là 2 bài nguyên văn chữ Phạn, nay phiên ân Hán văn ra quốc văn để dễ đọc tụng.
Bài đầu nguyên văn có mấy chữ đọc là
Tỳ Lô Quán đảnh chơn ngôn: Án a mộ già vi lô tả nẵng ma hạ mẫu nại ra, ma nỉ bát nạp mạ, nhập phạ lã, bát ra mạ đá dạ hồng (108 biến)
Bài thứ 2 có nhiều chữ đọc là:
Đại bảo quản bát, lâu cát thiện chủ bí mật đà la ni:
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẩm án vỉ bổ lã, nghiệt bệ mạ nỉ, tô bát ra bệ vỉ mạ lê, bà nghiệt ra tỉ lệ, hồng hồng nhập phạ lã, nhập phạ lã, một đà vỉ lô chỉ đế, hồng hê dạ địa sắc sí, đa nghiệt bệ ta bà ha (21, 108 biến).
Hai bài thần chú này công năng xa rộng, ý nghĩa rất sâu sắc, không thể nào kể hết được. Nay đây chỉ sơ lược về phần chính yếu để phổ biến ý nghĩa và hiệu lực của nó trong khi dùng mền Quang Minh..
BÀI KỆ:
– Chơn ngôn phạm tự xúc thi cốt,
– Vong giả tức sanh tịnh độ trung
– Kiến Phật văn pháp thân thọ ký,
– Tốc chứng vô thượng đại Bồ Đề
——-——